Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh quý III và 9 tháng năm 2025

Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm bản lề để hoàn thành các nhiệm vụ theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XIX và chuẩn bị tiền đề cho nhiệm kỳ Đại hội khóa XX, đồng thời đẩy nhanh tiến độ thực hiện các mục tiêu kế hoạch 5 năm giai đoạn 2026 - 2030.

Trong chín tháng vừa qua, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả tích cực. Kinh tế duy trì đà tăng trưởng khá; bộ máy chính quyền hai cấp vận hành ổn định, hiệu lực và hiệu quả được nâng cao. Các dự án công nghiệp trọng điểm được đảm bảo tiến độ, trong khi lĩnh vực du lịch - dịch vụ khởi sắc với nhiều hoạt động quảng bá và giải trí sôi nổi. Công tác giải ngân vốn đầu tư công và triển khai các dự án hạ tầng đô thị, giao thông chiến lược cũng được đẩy mạnh. Bên cạnh những thuận lợi, địa bàn tỉnh cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, đặc biệt là ảnh hưởng nặng nề từ 03 cơn bão Bão số 5 (bão Kajiki), bão số 6 (bão Nongfa) và bão số 10 (Bualoi) đến sản xuất, kinh doanh và đời sống người dân.

Trước bối cảnh đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm. Đồng thời, tỉnh cũng chú trọng cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển, với quyết tâm hoàn thành mục tiêu tăng trưởng năm 2025 và tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo.

I. LĨNH VỰC KINH TẾ

1. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá hiện hành 9 tháng năm 2025 ước đạt 87.711 tỷ đồng; theo giá so sánh ước đạt 47.934 tỷ đồng tăng 8,05% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá so sánh quý III năm 2025 ước tăng 6,79% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 9,98%, làm giảm 1,30 điểm % vào mức tăng trưởng chung; khu vực Công nghiệp, xây dựng tăng 10,40%, đóng góp 4,89 điểm %; khu vực Dịch vụ tăng 8,30% đóng góp 2,63 điểm %; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6,77%, đóng góp 0,57 điểm % vào mức tăng trưởng chung.

Tính chung 9 tháng năm 2025, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 2025 theo giá so sánh ước tăng 8,05% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 1,97%, làm giảm 0,26 điểm % vào mức tăng trưởng chung; khu vực Công nghiệp, xây dựng tăng 11,30%, đóng góp 4,84 điểm %; khu vực Dịch vụ tăng 8,01% đóng góp 2,77 điểm %; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 7,54%, đóng góp 0,70 điểm % vào mức tăng trưởng chung.

Khu vực Nông lâm thủy sản trong quý III/2025 phải đối mặt với nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và thu nhập của người dân. Vào cuối quý II và quý III/2025, nhiều đợt mưa lớn, bão, lũ cục bộ làm ngập úng một số diện tích hoa màu và gây xói lở đất sản xuất. Tổng sản lượng lương thực có hạt vụ Hè Thu năm 2025 giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, trong chăn nuôi, dịch tả lợn Châu Phi bùng phát, diễn biến phức tạp gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Ngoài ra, bão lũ gây hậu quả nặng nề, làm chết, mất tích nhiều gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh, gây sụt giảm sản lượng và giá trị ngành chăn nuôi. Những khó khăn trên đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất ngành nông nghiệp. Dẫn đến tăng trưởng ngành nông nghiệp quý III và 9 tháng năm 2025 giảm đáng kể so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 9 tháng năm 2025, ngành nông nghiệp giảm 3,92%, làm giảm 0,41 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn tỉnh; ngành lâm nghiệp tăng 8,83% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,07 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,49%, đóng góp 0,08 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung toàn ngành kinh tế tỉnh Hà Tĩnh.

Trong khu vực công nghiệp, xây dựng, ngành công nghiệp Hà Tĩnh đóng vai trò đầu tàu, là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế. 9 tháng năm 2025, tăng trưởng toàn ngành công nghiệp ước đạt 11,88%, đóng góp 3,93 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn tỉnh. Riêng ngành xây dựng tăng 9,32%, đóng góp 0,91 điểm phần trăm. Nguyên nhân hiện nay trên địa bàn tỉnh nhiều công trình, dự án lớn đang được đẩy nhanh tiến độ thi công. Ngoài triển khai các dự án, công trình chuyển tiếp thì năm nay trên địa bàn Hà Tĩnh đã có những dự án được khởi công mới và mở rộng quy mô sản xuất. Với sự đóng góp chủ yếu từ Khu kinh tế Vũng Áng, đặc biệt là các ngành sản xuất thiết bị điện (pack pin, cell pin), sản xuất điện, ô tô điện,… Đây là nguồn lực lớn nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả năm 2025 và là nền tảng cho các năm tiếp theo.

Về cơ cấu kinh tế 9 tháng năm 2025 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 13,92%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,45%, (trong đó, ngành Công nghiệp chiếm 29,99%; ngành xây dựng chiếm 9,46%); khu vực Dịch vụ chiếm 37,39%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,24%. Như vậy, cơ cấu chuyển dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ là chủ đạo. Công nghiệp giữ vai trò động lực tăng trưởng chính, cho thấy kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào khu vực sản xuất công nghiệp là chủ yếu.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong 9 tháng năm 2025, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có nhiều biến động. Vụ Xuân đạt kết quả toàn diện, tạo tiền đề tích cực cho sản xuất, song vụ Hè Thu diễn ra trong điều kiện thời tiết bất lợi, đặc biệt là hai cơn bão liên tiếp gây thiệt hại đáng kể. Chăn nuôi chịu tác động lớn do ảnh hưởng dịch tả lợn Châu Phi tái bùng phát làm giảm quy mô đàn và ảnh hưởng đến sản lượng. Ngược lại, sản xuất cây ăn quả duy trì ổn định; lâm nghiệp tập trung chăm sóc, khôi phục rừng và thu mua diện tích bị đổ gãy; thủy sản tiếp tục giữ đà tăng trưởng cả ở khai thác và nuôi trồng.

2.1. Sản xuất nông nghiệp

a. Trồng trọt

Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng 9 tháng năm 2025 ước đạt 156.209 ha, giảm 1.226 ha (giảm 0,78%) so với cùng kỳ năm trước, trong đó:

Cây lúa: diện tích gieo trồng cây lúa 9 tháng ước tính đạt 104.752 ha, tăng 561 ha (tăng 0,53%) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó vụ Đông Xuân diện tích gieo cấy lúa toàn tỉnh đạt 59.276 ha, giảm 41 ha (giảm 0,07%) so với cùng kỳ năm trước; vụ Hè Thu gieo trồng đạt 45.476 ha, tăng 602 ha (tăng 1,34%). Diện tích lúa Hè Thu năm nay tăng chủ yếu do vụ trước đạt kết quả thắng lợi nhờ thời tiết thuận lợi và năng suất cao, tạo động lực để nông dân tiếp tục mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, một số địa phương đã chủ động được nguồn nước tưới, chính quyền ban hành chính sách hỗ trợ kịp thời, khuyến khích bà con gieo trồng. Ngoài ra, công tác rà soát, đo đạc lại diện tích tại một số xã cũng góp phần làm số liệu diện tích ghi nhận tăng so với trước. Năng suất lúa 9 tháng ước đạt 47,71 tạ/ha, giảm 9,66 tạ/ha (giảm 16,83%) so với cùng kỳ năm trước, trong đó năng suất vụ Đông Xuân đạt 61,25 tạ/ha, tăng 0,07 tạ/ha (tăng 0,12%); vụ Hè Thu ước tính đạt 30,06 tạ/ha, giảm 22,28 tạ/ha (giảm 42,57%) so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng lúa 9 tháng năm 2025 ước tính đạt 499.809 tấn, giảm 97.953 tấn (giảm 16,39%) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng lúa Đông Xuân chính thức đạt 363.115 tấn, tăng 214 tấn (tăng 0,06%) so với cùng kỳ năm trước; sản lượng lúa vụ Hè Thu ước đạt 136.694 tấn, giảm 98.167 tấn (giảm 41,8%) so với cùng kỳ năm trước.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng 9 tháng ước đạt 14.667 ha, tăng 284 ha (tăng 1,97%) so với cùng kỳ năm trước. Năng suất ước đạt 51,5 tạ/ha, tăng 0,99 tạ/ha (tăng 1,96%). Sản lượng ước đạt 75.528 tấn, tăng 2.886 tấn (tăng 3,97%) so với cùng kỳ năm trước.

Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng 9 tháng ước đạt 3.144 ha, giảm 191 ha (giảm 5,74%) so với cùng kỳ năm trước. Năng suất ước đạt 75,62 tạ/ha, tăng 1,08 tạ/ha (tăng 1,46%). Sản lượng ước đạt 23.774 tấn, giảm 1.085 tấn (giảm 4,36%) so với cùng kỳ năm trước.

Cây lạc: Diện tích gieo trồng 9 tháng ước đạt 6.268 ha, giảm 714 ha (giảm 10,22%) so với cùng kỳ năm trước. Năng suất ước đạt 27,40 tạ/ha, giảm 0,41 tạ/ha (giảm 1,49%). Sản lượng lạc ước đạt 17.178 tấn, giảm 2.245 tấn (giảm 11,56%) so với cùng kỳ năm trước.

Rau các loại: Diện tích gieo trồng rau 9 tháng ước đạt 13.768 ha, giảm 86 ha (giảm 0,62%) so với cùng kỳ năm trước. Năng suất ước đạt 74,49 tạ/ha, tăng 1,33 tạ/ha (tăng 1,81%). Sản lượng ước đạt 102.554 tấn, bằng 101,18%, tăng 1.202 tấn (tăng 1,18%) so với cùng kỳ năm trước.

Cây đậu: Diện tích đậu các loại ước 2.456 ha, giảm 17 ha (giảm 0,69%) so với cùng kỳ năm trước. Năng suất ước đạt 9,15 tạ/ha, giảm 1,03 tạ/ha (giảm 10,12%) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng ước đạt 2.246 tấn, giảm 270 tấn (giảm 0,96%) so với cùng kỳ năm trước.

Cây lâu năm: Tổng diện tích hiện có cây lâu năm 9 tháng năm 2025 ước đạt ước đạt 31.050ha, giảm 120ha (giảm 0,38%) so với cùng kỳ năm 2024. Với thời tiết và thổ nhưỡng của tỉnh thì cây ăn quả vẫn là cây chủ lực cho giá trị kinh tế cao, với diện tích chiếm gần 63% tổng diện tích cây lâu năm. Diện tích cây ăn quả ước đạt 19.504 ha, tăng 85 ha (tăng 0,44%) so với cùng kỳ năm trước.

Trong quý III năm 2025, sản lượng của một số loại cây ăn quả trên địa bàn ghi nhận mức tăng so với cùng kỳ năm trước do đến thời kỳ thu hoạch bưởi. Sản lượng các loại có múi ước đạt 30.256 tấn, tăng 2.013 tấn (tăng 7,13%) so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung Chín tháng năm 2025, sản lượng cây ăn quả ước đạt 82.269 tấn, tăng 3.265 tấn (tăng 4,13%) so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, tỉnh tiếp tục tập trung phát triển các cây ăn quả chủ lực có giá trị kinh tế cao thông qua các mô hình sản xuất với quy mô lớn, liên kết theo chuỗi giá trị bền vững, tổ chức sản xuất gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ nhằm tạo ra sản phẩm có thương hiệu, giá trị và sức cạnh tranh cao trên thị trường.

Tình hình sâu bệnh, thiệt hại: Trong 9 tháng năm 2025 các đối tượng sâu bệnh vẫn phát sinh gây hại trên các loại cây trồng. Đối với lúa vụ Đông Xuân bệnh khô vằn gây hại trên những diện tích gieo cấy dày, bón thừa đạm, diện tích nhiễm 3.200 ha, trong đó có 150 ha nhiễm nặng, phân bố hầu hết các địa phương; 600 ha bị chuột gây hại, bên cạnh bệnh bạc lá, rầy nâu rầy lưng trắng, sâu cuốn lá nhỏ xuất hiện rải rác tại các địa phương...Vụ Hè Thu bệnh khô vằn gây hại trên 6.000 ha, rầy nâu lứa 3 nhiễm 348 ha, sâu cuốn lá nhỏ lứa 3 nhiễm 8.500 ha...

Đối với các cây lâu năm sâu bệnh chủ yếu xuất hiện trên các cây ăn quả có múi trong các vườn hộ lâu năm: Nhện, Bệnh nứt thân xì mủ, ruồi đục quả phát sinh gây hại trên các vườn cây ăn quả chăm sóc kém ở Vũ Quang, Hương Sơn, Phúc Trạch, Hương Đô, diện tích nhiễm 80 ha; bệnh loét xuất hiện rải rác trên những diện tích vừa qua bị ảnh hưởng của bão ở Hương Khê, Phúc Trạch, Vũ Quang,…

b. Chăn nuôi

Tổng đàn trâu hiện có 59.102 con, giảm 7.700 con (giảm 11,53%) so với cùng kỳ năm trước; đàn bò hiện có 152.536 con, giảm 11.564 con (giảm 7,05%) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do giá trị kinh tế từ chăn nuôi trâu, bò không còn cao như trước, đầu ra tiêu thụ gặp khó khăn nên nhiều hộ giảm quy mô hoặc chuyển sang các loại vật nuôi khác có hiệu quả hơn.

Tổng đàn lợn ước đạt 337.380 con (không bao gồm lợn con chưa tách mẹ), giảm 12.940 con (giảm 3,69%) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính do dịch tả lợn Châu Phi diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến tâm lý người chăn nuôi. Đặc biệt, các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ hầu như không tái đàn, dẫn đến tổng đàn lợn giảm và nguồn cung thịt lợn trên thị trường bị ảnh hưởng.

 Đàn gia cầm ước đạt 10.142.000 con, giảm 44.000 con (giảm 0,43%) so với cùng kỳ; trong đó đàn gà đạt 8.482 nghìn con, giảm 81 nghìn con (giảm 0,95%).

Sản lượng xuất chuồng 9 tháng năm 2025: Thịt trâu ước đạt 3.001 tấn, tăng 9,93%; thịt bò ước đạt 7.632 tấn, tăng 2,79%; thịt lợn ước đạt 52.243 tấn, giảm 3,09%; thịt gia cầm ước đạt 23.512 tấn, tăng 6,14% (trong đó thịt gà ước đạt 18.356 tấn, tăng 11,93%).

Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Trong tháng 9/2025, trên địa bàn tỉnh ghi nhận nhiều dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên đàn gia súc. Dịch tả lợn Châu Phi xảy ra tại 50 xã, làm 7.685 con lợn mắc bệnh, chết và buộc tiêu hủy với tổng khối lượng 519,2 tấn. Dịch viêm da nổi cục xuất hiện ở 7 xã, có 19 con bò mắc bệnh, trong đó 10 con chết, phải tiêu hủy.

Tính từ đầu năm đến 24/9/2025, dịch tả lợn Châu Phi đã xuất hiện tại 62 xã với 20.486 con bị tiêu hủy; viêm da nổi cục xảy ra ở 18 xã với 88 con bò mắc bệnh, 24 con chết; lở mồm long móng tại 2 xã với 16 con bò mắc bệnh, trong đó 1 con chết. Đến nay, dịch tả lợn Châu Phi vẫn còn tại 42 xã, viêm da nổi cục tại 4 xã và lở mồm long móng tại 1 xã, đều chưa qua 21 ngày.

2.2. Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp: Trong 9 tháng năm 2025, hoạt động sản xuất lâm nghiệp đạt mức tăng trưởng khá, thể hiện ở việc diện tích rừng trồng mới tiếp tục được mở rộng và sản lượng gỗ khai thác tăng cao. Kết quả này có được chính sách khuyến khích trồng rừng sản xuất được triển khai đồng bộ, cùng với nhu cầu ổn định từ các ngành chế biến gỗ và xuất khẩu.

Tính riêng quý III/2025, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 2.190 ha, tăng 23,05% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 230,88 nghìn m3, tăng 12,90%.

Diện tích rừng trồng mới tháng 9 năm 2025 ước đạt 1.415 ha, tăng 19,21%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 144 nghìn m3, tăng 15,04%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 14 ngàn cây, giảm 86,92% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng trồng mới 9 tháng năm 2025 ước đạt 5.474 ha, tăng 10,32%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 473,07 nghìn m3, tăng 14,36%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 1.573 ngàn cây, giảm 26,58% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác tăng so với cùng kỳ do diện tích đến kỳ khai thác và đặc biệt do ảnh hưởng của hai cơn bão số 5 và số 6 đã làm nhiều diện tích rừng bị gãy đổ, buộc người dân khai thác sớm.

Trồng rừng, bảo vệ rừng là một trong những việc làm hết sức thiết thực để phát triển bền vững. Phát triển rừng vừa tạo ra thu nhập từ rừng, vừa để bảo vệ môi trường vì vậy các cấp, các ngành và người dân đặc biệt quan tâm. Tính chung 9 tháng năm 2025, diện tích rừng trồng mới, hoạt động khai thác gỗ và cây trồng phân tán tăng so với cùng kỳ năm trước. Diện tích trồng rừng chủ yếu tập trung ở các địa phương như huyện Kỳ Anh, Hương Khê, Hương Sơn, Cẩm Xuyên, Thạch Hà.

Thiệt hại về rừng: Trong tháng xảy ra 3 vụ phá rừng với diện tích bị phá 1,35 ha. Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 23/9/2025, số vụ phá rừng là 36 vụ (giảm 9 vụ), diện tích rừng bị phá là 8,9 ha (giảm 3,35 ha) so với cùng kỳ năm trước.

2.3. Thủy sản

Sản xuất thủy sản: Thủy sản Hà Tĩnh 9 tháng vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định khi sản lượng khai thác và nuôi trồng đều tăng so với cùng kỳ, phản ánh khả năng thích ứng trước biến động thời tiết và góp phần củng cố vai trò của ngành trong cơ cấu nông – lâm – thủy sản.

Tổng sản lượng thủy sản quý III ước đạt 20.466 tấn, tăng 3,29%, trong đó sản lượng khai thác ước đạt 12.663 tấn, tăng 2,64%, sản lượng nuôi trồng ước đạt 7.803 tấn, tăng 4,35% so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng thủy sản 9 tháng ước đạt 49.880 tấn, tăng 4,71%, trong đó sản lượng khai thác ước đạt 35.101 tấn, tăng 4,99%, sản lượng nuôi trồng ước đạt 14.779 tấn, tăng 4,03% so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Trong 9 tháng đầu năm 2025, diện tích nuôi trồng thủy sản bị dịch bệnh ước tính 4,4 ha. Riêng trong tháng 9, phát sinh dịch bệnh EHP trên tôm nuôi (chủ yếu là tôm thẻ chân trắng) với diện tích 0,75 ha tại xã Thạch Hà. Đây là bệnh ký sinh trùng đường ruột, không gây chết hàng loạt nhưng làm tôm chậm lớn, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng thu hoạch.

3. Sản xuất công nghiệp

Công nghiệp Hà Tĩnh trong quý III và 9 tháng năm 2025 tiếp tục ghi nhận nhiều điểm sáng tích cực, với sự khởi sắc rõ nét ở các lĩnh vực then chốt. Nhiều dự án công nghiệp trọng điểm được đẩy nhanh tiến độ. Trong đó, tổ máy số 1 của Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II hòa lưới điện cuối tháng 7/2025, đánh dấu bước tiến quan trọng trong đảm bảo năng lượng. Nhà máy VinES tiếp tục mở rộng quy mô khi nâng công suất dây chuyền số 1 đi vào sản xuất trong tháng 8/2025 và lắp đặt dây chuyền số 2, dự kiến sẽ chính thức đi vào sản xuất trong thời gian tới. Song song, Nhà máy sản xuất ô tô VinFast hoàn thành giai đoạn thử nghiệm sản phẩm, đi vào sản xuất kinh doanh. Những tín hiệu tích cực này cho thấy bức tranh công nghiệp Hà Tĩnh đang chuyển mình mạnh mẽ, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững và thu hút đầu tư trong những quý tiếp theo.

3.1. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)

Ước tính tháng 9/2025, chỉ số sản xuất toàn ngành tăng 1,16% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước ước tăng 12,96%. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng ước giảm 0,41% so với tháng trước và giảm 7,97% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tăng 2,53% so với tháng trước và giảm 0,31% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện dự ước giảm 3,46% so với tháng trước và tăng 125,31% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải ước tính tăng 2,15% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước tăng 9,89%.

Quý III năm 2025, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 1,52% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III năm 2025, một số ngành lớn gặp khó khăn trong sản xuất, đặc biệt ngành sản xuất kim loại của Doanh nghiệp Formosa tiến hành ngừng bảo dưỡng lò số 1 từ 15/8/2025 đến ngày 15/9/2025; ngành sản xuất cell pin trong tháng 7/2025 gặp vướng mắc trong khâu logistics, việc thông quan chậm khoảng 2 tuần dẫn đến thiếu hụt nguyên vật liệu đầu vào, buộc nhà máy phải ngừng sản xuất 4 ngày và sau đó duy trì hoạt động với công suất giảm. Hệ quả là sản lượng trong tháng 7 và 8 sụt giảm rõ rệt so với mức trung bình các quý đầu năm. Những điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến chỉ số sản xuất công nghiệp trong quý này.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 4,20% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 12,09% đóng góp 0,25 điểm vào mức tăng chung toàn ngành; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,09% đóng góp 1,05 điểm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 22,91% đóng góp 2,81 điểm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,36% đóng góp 0,09 điểm vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp Hà Tĩnh.

Nhìn chung, 9 tháng năm 2025 ghi nhận những dấu hiệu nổi bật làm tăng chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh như: (1) Ngành sản xuất thiết bị điện tại Hà Tĩnh ghi nhận tăng trưởng vượt bậc. Nhà máy sản xuất Pack pin đã hoàn tất nâng công suất dây chuyền số 1 và đi vào vận hành từ tháng 8/2025. Đồng thời, nhà máy ô tô điện VinFast bắt đầu sản xuất - kinh doanh, kéo theo nhu cầu lớn về pin và thiết bị điện. Dự kiến đến hết tháng 9/2025, sản lượng Pack pin đạt hơn 27.000 sản phẩm, gấp hơn 9 lần cùng kỳ năm trước; Cell pin đạt trên 14 triệu đơn vị. Chỉ số sản xuất toàn ngành duy trì ở mức cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng công nghiệp địa phương; (2) Năm nay, ngoài việc cả hai tổ máy của Vũng Áng I vận hành ổn định, thì Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II đã chính thức đi vào vận hành thương mại từ cuối tháng 7/2025, tạo thêm nguồn điện lớn. Nhờ đó, chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tính chung 9 tháng đầu năm tăng 22,91% so với cùng kỳ năm trước, trở thành một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của công nghiệp Hà Tĩnh.

3.2.Một số sản phẩm chủ yếu

Trong 9 tháng năm 2025, ngành công nghiệp Hà Tĩnh tiếp tục cho thấy xu hướng phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Trong số 20 nhóm sản phẩm công nghiệp chủ yếu được theo dõi, có 13 nhóm sản phẩm ghi nhận mức tăng sản lượng so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này cho thấy sự chuyển biến tích cực trong hoạt động sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Đặc biệt, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo - lĩnh vực đóng vai trò chủ lực, tiếp tục là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhiều sản phẩm thuộc nhóm này đạt sản lượng cao hơn cùng kỳ, phản ánh rõ nỗ lực phục hồi và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, đồng thời khẳng định vị trí trung tâm của ngành trong cơ cấu công nghiệp địa phương.

Một số sản phẩm công nghiệp 9 tháng năm tăng so với cùng kỳ năm trước: Ắc quy bằng ion lithi tăng gần 5 lần so với cùng kỳ; thức ăn gia súc tăng 36,35%; điện tăng 23,65%; đá xây dựng khác tăng 17,8%; Sợi tăng 17,92%; ...

Một số sản phẩm công nghiệp 9 tháng năm 2025 giảm so với năm trước: Quặng zircon và tinh quặng zircon giảm 32,15%; Quặng inmenit và tinh quặng inmenit giảm 28,57%; thép không gỉ ở dạng bán thành phẩm giảm 12,14%; Vỏ bào, dăm gỗ giảm 10,74%;...

3.3. Chỉ số ngành công nghiệp

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dự ước tháng 9/2025 tăng 9,3% so với tháng trước và giảm 19,09% so với cùng kỳ tháng 9/2024. Tính chung 9 tháng đầu năm 2025, chỉ số tiêu thụ giảm 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành chủ lực sụt giảm đáng kể, đặc biệt sức tiêu thụ thép trên thị trường suy yếu. Chỉ số tiêu thụ ngành sản xuất kim loại giảm 15,87%. Các doanh nghiệp chế biến gỗ tại Hà Tĩnh đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các tỉnh khác và cả thị trường quốc tế. Hiện tại, phần lớn dăm gỗ xuất khẩu từ Hà Tĩnh chủ yếu ở dạng thô, thiếu chế biến sâu, dẫn đến giá trị gia tăng thấp. Chỉ số tiêu thụ mặt hàng này 9 tháng đầu năm giảm 19,33%. Điều này tác động lớn đến chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Hà Tĩnh.

Tuy nhiên, nhiều mặt hàng trong tổng số các nhóm sản phẩm trên địa bàn có chỉ số tiêu thu tăng cao so với cùng kỳ năm 2024 như: Sản xuất và chế biến thực phẩm tăng 24,29%; sợi tăng 17,47%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 57,55%;… Mặc dù chỉ số tiêu thụ giảm nhẹ trong 9 tháng năm 2025, tuy nhiên, tỷ trọng các nhóm sản phẩm có chỉ số tiêu thụ tăng chiếm ưu thế, cho thấy đa số các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đang có dấu hiệu tích cực trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 9/2025 tăng 1,73% so với tháng trước và 2,54% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số tồn kho mặt hàng sợi tăng cao, ở mức 71,35%. Nhu cầu tiêu dùng trong nước và đơn hàng xuất khẩu sợi giảm so với cùng kỳ, dẫn đến lượng tiêu thụ sợi ở mức thấp, làm chỉ số tồn kho tăng cao. Bước vào giai đoạn cuối năm, nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất để chuẩn bị cho mùa cao điểm tiêu dùng cuối năm, khiến lượng sản phẩm hoàn thiện trong kho tăng lên tạm thời trước khi được phân phối ra thị trường. Chỉ số tồn kho ngành sản xuất đồ uống tăng 84,04%; ngành chế biến thực phẩm tăng 8,7%... Đây là những nguyên nhân chủ yếu chỉ số tồn kho tháng 9/2025 tăng so với cùng kỳ năm trước.

3.4. Tình hình sử dụng lao động

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 9/2025 giảm 4,74% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước tăng 33,25%. Năm 2025, tình hình sử dụng lao động tại Hà Tĩnh có những biến động đáng chú ý, phản ánh sự phục hồi và chuyển dịch trong cơ cấu lao động của tỉnh. Khi các dự án, nhà máy mới đi vào hoạt động sản xuất đã góp phần tăng số lượng lao động trên địa bàn so với năm trước. Cộng dồn đến cuối tháng 9 năm 2025, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tăng 10,83% so với cùng kỳ. Trong đó, chỉ số sử dụng lao động của ngành khai khoáng giảm 5,36% so với năm trước. Một số mỏ khai thác hết trữ lượng được phép khai thác cũng như máy móc công nghệ hiện đại thay thế sức lao động là nguyên nhân dẫn đến chỉ số sử dụng lao động ngành này ngày càng giảm. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,08% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, một số doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo đi vào sản xuất kinh doanh cũng như mở rộng quy mô sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm vì vậy nguồn nhân lực tăng so với cùng kỳ. Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng II đi vào sản xuất đóng góp vào chỉ số sử dụng lao động ngành sản xuất và phân phối điện tăng 13,36%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 1,57% so với cùng kỳ năm 2024.

4. Tình hình hoạt động doanh nghiệp

Tình hình doanh nghiệp trong 9 tháng năm 2025 có nhiều điểm tích cực, thể hiện qua số lượng doanh nghiệp thành lập mới và tổng vốn đăng ký tăng mạnh. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động cũng tăng, cho thấy vẫn còn nhiều thách thức trong môi trường kinh doanh. Tỉnh cần tiếp tục có những chính sách hỗ trợ kịp thời, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ và vừa để thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững.

4.1. Tình hình đăng ký kinh doanh

Tính chung 9 tháng năm 2025, doanh nghiệp thành lập mới tiếp tục tăng trưởng mạnh, toàn tỉnh thành lập mới 1.303 doanh nghiệp, tăng 24,57% so cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy môi trường đầu tư, kinh doanh tại địa phương có dấu hiệu cải thiện tích cực, thu hút ngày càng nhiều cá nhân, tổ chức tham gia thị trường; tổng vốn đăng ký đạt gần 7.465 tỷ đồng, tăng 39,42%, đây là tín hiệu lạc quan, cho thấy không chỉ số lượng doanh nghiệp tăng, mà quy mô và mức độ đầu tư cũng được mở rộng; Có 322 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1,53% so cùng kỳ. Tuy không sụt giảm nhiều nhưng đây có thể là dấu hiệu cho thấy trong bối cảnh thị trường kinh doanh có những khó khăn chưa được giải quyết triệt để; Số lượng doanh nghiệp giải thể và tạm ngừng vẫn tiếp tục tăng: Trong đó, có 247 doanh nghiệp giải thể, tăng 41,14%, 607 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 12,83% so với cùng kỳ năm trước. Những con số này cảnh báo về những khó khăn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là với các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.

4.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo

Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong quý III/2025: Hoạt động sản xuất vẫn còn nhiều áp lực về thị trường, lao động và nguyên liệu đầu vào, kết quả khảo sát cho thấy: Nhu cầu thị trường trong nước thấp, 52,94% doanh nghiệp đánh giá là rào cản lớn; tính cạnh tranh của hàng trong nước cao, chiếm 70,59% doanh nghiệp nhận định, cho thấy áp lực cạnh tranh trong nội địa rất lớn, đặc biệt đối với sản phẩm có giá trị gia tăng thấp hoặc chưa tạo được thương hiệu; khó khăn tài chính cũng là vấn đề đáng lo ngại với 35,29% doanh nghiệp lựa chọn. Trong đó: 100% doanh nghiệp ngành dệt, sản xuất kim loại, thiết bị đồ điện, đồ uống phản ánh gặp khó khăn do đơn hàng tiêu thụ trong và ngoài nước sụt giảm, điều này phản ánh sự phụ thuộc lớn vào thị trường đầu ra, trong khi nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu đang yếu; 100% doanh nghiệp ngành may mặc gặp khó khăn không tuyển được lao động theo yêu cầu, chịu ảnh hưởng từ cạnh tranh thị trường cao; 100% doanh nghiệp ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu đang sản xuất với công nghệ lạc hậu, gây khó khăn trong nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh; …

Dự báo và kỳ vọng qúy IV/2025: Tình hình sản xuất, kinh doanh được kỳ vọng cải thiện khi mà có 47,06% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh sẽ tốt lên so với quý III, 47,06% cho rằng sẽ giữ nguyên, chỉ 5,88% lo ngại tình hình sẽ xấu đi. Đây là tín hiệu lạc quan, phản ánh doanh nghiệp vẫn kỳ vọng sự phục hồi trong giai đoạn cuối năm.

5. Thương mại, dịch vụ

Trong 9 tháng đầu năm 2025, hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng so với cùng kỳ, thị trường cơ bản ổn định, sức mua có dấu hiệu cải thiện. Các loại hình dịch vụ như lưu trú, ăn uống, vận tải, du lịch ghi nhận mức tăng khá; môi trường kinh doanh có chuyển biến tích cực, số doanh nghiệp thành lập mới tăng, công tác phát triển hạ tầng và xúc tiến thương mại được quan tâm.

5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng, chủ yếu nhờ nguồn cung hàng hóa đảm bảo, giá cả ổn định và nhu cầu tiêu dùng mở rộng. Kết quả này phản ánh sức mua được cải thiện, hoạt động thương mại - dịch vụ diễn ra sôi động hơn, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và đời sống dân cư.

Trong quý III/2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 23.669,1 tỷ đồng, tăng 2,24% so với quý trước và tăng 13,86% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 1,48% và tăng 13,16%; lưu trú, ăn uống tăng 8,78% và tăng 17,06%; du lịch lữ hành giảm 38,97% và tăng 17,06%; dịch vụ khác tăng 2,26% và tăng 17,68% so với quý trước và so cùng kỳ năm trước. Kết quả này cho thấy hoạt động thương mại - dịch vụ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, trong đó bán lẻ hàng hóa và dịch vụ lưu trú, ăn uống là những lĩnh vực đóng góp chính. Tuy nhiên, du lịch lữ hành còn biến động do mùa vụ, đòi hỏi tỉnh đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các loại hình như du lịch văn hóa, cộng đồng, sinh thái gắn với đặc trưng địa phương để ổn định hơn.

Tính chung Chín tháng năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 69.088,16 tỷ đồng, tăng 12,84% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động:

 Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 57.930,05 tỷ đồng, chiếm 83,85% tổng doanh thu và tăng 12,46% so với cùng kỳ năm 2024. Hầu hết các nhóm hàng đều tăng, trong đó thiết bị gia đình, đá quý - kim loại quý, dịch vụ sửa chữa phương tiện và vật phẩm văn hóa - giáo dục tăng mạnh, phản ánh nhu cầu cải thiện đời sống, đầu tư và học tập của người dân. Nhóm lương thực, thực phẩm tiếp tục giữ vai trò chủ lực với mức tăng gần 16%. Kết quả này cho thấy sức mua thị trường duy trì ổn định, nhờ nguồn cung dồi dào, giá cả cơ bản ổn định và hoạt động thương mại - dịch vụ được thúc đẩy.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 7.201 tỷ đồng, chiếm 10,42% tổng doanh thu và tăng 14,51% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng, du lịch, giao lưu văn hóa - thương mại tăng cao trong bối cảnh đời sống dân cư được cải thiện, thu nhập ổn định hơn. Bên cạnh đó, các dịp lễ hội, sự kiện văn hóa, thể thao trong và ngoài tỉnh diễn ra sôi động đã kích thích nhu cầu ăn uống, nghỉ dưỡng. Ngoài ra, chất lượng dịch vụ lưu trú, ẩm thực được nâng lên, nhiều cơ sở chú trọng quảng bá, ứng dụng đặt dịch vụ trực tuyến và đa dạng hóa sản phẩm, góp phần thu hút khách hàng, nhất là giới trẻ và khách du lịch.

Doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 74,18 tỷ đồng, chiếm 0,11% và tăng 34,97% so với cùng kỳ năm trước. Lượng khách du lịch đi theo tour ước đạt 20.013 lượt khách (tăng 33,56%) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu là nhờ chính sách nới rộng thị thực đã tạo điều kiện thuận lợi cho du khách quốc tế, lượng khách đến địa phương tăng rõ rệt. Đồng thời, các doanh nghiệp lữ hành đẩy mạnh khai thác tour tuyến mới, liên kết với nhiều điểm đến trong và ngoài tỉnh; hạ tầng du lịch được cải thiện; các chương trình quảng bá, sự kiện văn hóa, thể thao được tổ chức thường xuyên, qua đó góp phần thúc đẩy doanh thu lữ hành tăng trưởng mạnh.

Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 3.882,92 tỷ đồng (chiếm 5,62%) và tăng 15,25% so với cùng kỳ, tiếp tục cho thấy sự ổn định và tăng trưởng qua quý I (tăng 9,89%), quý II (tăng 18,04%) và quý III (tăng 17,68%). Đà tăng này chủ yếu đến từ ba nhóm dịch vụ: Nhóm bất động sản đạt mức tăng 46,35% do việc sáp nhập các vùng ngoại thành vào nội thị, điều chỉnh địa giới hành chính, và các thông tin quy hoạch mới đã kích thích đầu tư đất nền tại các vùng ven, khiến người dân và nhà đầu tư “gom” đất tại các khu vực được dự báo sẽ lên giá. Ngoài ra, hạ tầng giao thông, kết nối đô thị, quy hoạch khu dân cư mới cũng được đẩy mạnh, nâng cao tính hấp dẫn của bất động sản địa phương. Nhóm cho thuê máy móc, thiết bị (ngành 77) tăng 10,85%, được thúc đẩy bởi nhu cầu cao từ các công trình xây dựng, hạ tầng và khu công nghiệp. Khi nhiều dự án phát triển đô thị, công trình hạ tầng, đường, cầu, khu công nghiệp, được triển khai mạnh, các doanh nghiệp xây dựng phải thuê máy móc hiện đại để đẩy tiến độ. Nhóm dịch vụ khác (ngành 96) tăng 13,85%, nhờ tiêu dùng dịch vụ cá nhân, vui chơi giải trí, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ hỗ trợ tăng lên khi mức sống người dân cải thiện.

5.2. Hoạt động vận tải

Trong tháng 9/2025, doanh thu ngành vận tải và kho bãi ước đạt 868,43 tỷ đồng, tăng 0,35% so với tháng trước và tăng 32,38% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng trưởng này phản ánh xu hướng tích cực của thị trường trong bối cảnh nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại tiếp tục gia tăng. Trong đó: Vận tải hành khách ước đạt 145 tỷ đồng, tăng 1,66% so với tháng trước và tăng 31,83% so với cùng kỳ, nguyên nhân chính do trùng với kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2/9, rằm tháng Bảy âm lịch và thời điểm nhập học của tân sinh viên nên nhu cầu đi lại tăng cao; cùng với thời tiết nắng nóng khiến người dân ưu tiên sử dụng phương tiện công cộng, góp phần làm vận tải hành khách tăng so với tháng trước. Vận tải hàng hóa ước đạt 536,26 tỷ đồng, tăng 0,01% so với tháng trước và tăng 28,56% so với cùng kỳ, do nhiều công trình hoàn thiện, dự án mới triển khai và tiến độ xây dựng dân dụng được đẩy nhanh trước mùa mưa bão, làm tăng nhu cầu vận chuyển vật liệu.

Tăng trưởng tập trung chủ yếu trong quý III, với doanh thu vận tải ước đạt 2.595,31 tỷ đồng, tăng 18,05% so với quý I và tăng 3,28% so với quý II và tăng 17,76% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy vận tải bước vào giai đoạn cao điểm, nhu cầu hàng hóa và hành khách tăng mạnh trong quý III, qua đó khẳng định xu hướng phục hồi ổn định và đóng góp tích cực của ngành vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Vận tải hàng hóa quý III đạt 1.607,21 tỷ đồng (chiếm 61,93% doanh thu vận tải quý III), tăng 1,74% so với quý trước và tăng 12,79% so với cùng kỳ. Vận tải hành khách đạt 430,2 tỷ đồng, tăng 3,31% so với quý trước và tăng 23,01% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu nhờ nhu cầu đi lại, du lịch tăng cao trong kỳ nghỉ lễ.

Tính chung 9 tháng năm 2025, doanh thu ngành vận tải và kho bãi ước đạt 7.306,77 tỷ đồng, tăng 14,70% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hàng hóa tiếp tục đóng vai trò chủ đạo với 4.540,3 tỷ đồng, chiếm 62,14% doanh thu (tăng 14,66%), vận tải hành khách ước đạt 1.277,5 tỷ đồng (tăng 15,14%), kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 1.425,41 tỷ đồng (tăng 13,55%) và bưu chính chuyển phát ước đạt 63,56 tỷ đồng (tăng 38,19%). Dự báo 3 tháng cuối năm, nhu cầu vận tải tiếp tục tăng nhờ tiến độ các dự án hạ tầng, khu công nghiệp, du lịch và tiêu dùng cuối năm.

6. Tài chính, ngân hàng

6.1. Hoạt động tài chính

Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2025 đạt cao hơn so với cùng kỳ (tăng 13,22%). Hoạt động sản xuất của một số doanh nghiệp chủ lực tăng, thị trường bất động sản sôi nổi, tăng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh. Chi ngân sách Nhà nước cơ bản đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ đầu tư phát triển, chi thường xuyên bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục hồi nền kinh tế.

Thu ngân sách Nhà nước: Tổng thu ngân sách nhà nước 9 tháng năm 2025 đạt 16.346,63 tỷ đồng (tăng 13,22% so cùng kỳ). Trong đó, thu nội địa đạt 10.684,54 tỷ đồng (chiếm 65,36 % trong tổng thu) tăng 42,25% so với cùng kỳ. Cụ thể một số sắc thuế tăng mạnh so cùng kỳ như: Thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 1.696,20 tỷ đồng (tăng 115,17%); các khoản thu về nhà đất đạt 4.370,51 tỷ đồng (tăng 85,26%); thu từ khu vực công, thương nghiệp ngoài quốc doanh đạt 1.326,20 tỷ đồng (tăng 12,80%). Tuy nhiên, 9 tháng năm 2025 tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu chỉ đạt 4.944,65 tỷ đồng, giảm 22,53% so với cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu do Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gặp nhiều khó khăn trong SXKD dẫn đến nguồn thu ngân sách của Hà Tĩnh bị ảnh hưởng.

Chi ngân sách Nhà nước: Việc điều hành và thực hiện dự toán chi ngân sách địa phương cơ bản đảm bảo triển khai kịp thời các nhiệm vụ phát sinh cũng như các nhiệm vụ bổ sung từ nguồn ngân sách Trung ương. Tổng chi ngân sách nhà nước 9 tháng năm 2025 đạt 23.015,2 tỷ đồng tăng 26,50% so với cùng kỳ. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển đạt 9.041,54 tỷ đồng chiếm 39,29% tổng chi, tăng 14,07% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 13.960,75 tỷ đồng chiếm 60,66% tổng chi, tăng 36,21% so với cùng kỳ năm 2024.

6.2. Hoạt động ngân hàng

Hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2025 tiếp tục được đẩy mạnh. Các cơ chế, chính sách của ngành đã được triển khai đến người dân, doanh nghiệp trên địa bàn nhằm giúp khách hàng biết đến và sớm tiếp cận được các chính sách, qua đó góp phần hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội địa phương. Nguồn vốn huy động trên địa bàn 9 tháng năm 2025 có sự tăng trưởng tốt (tăng 9,59% so với cùng kỳ); tăng trưởng tín dụng tăng 14,63% so với cùng kỳ năm 2024.

Công tác huy động vốn trên địa bàn tiếp tục được đẩy mạnh, với việc triển khai nhiều chính sách hiệu quả, nhờ đó, nguồn vốn huy động trên địa bàn có sự tăng trưởng tốt. Tổng nguồn vốn huy động 9 tháng năm 2025 đạt 112.736,57 tỷ đồng, tăng 9,59% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, số dư huy động vốn ngắn hạn đạt 109.753,23 tỷ đồng, tăng 8,24%; số dư huy động vốn trung và dài hạn đạt 12.983,34 tỷ đồng, tăng 22,48% so với cùng kỳ năm 2024.

Dư nợ cho vay 9 tháng năm 2025 đạt 120.359,22 tỷ đồng, tăng 14,63% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, dư nợ ngắn hạn đạt 93.825,67 tỷ đồng (chiếm 77,95% tổng dư nợ), tăng 19,88%; dư nợ trung dài hạn ước đạt 26.533,60 tỷ đồng (chiếm 22,05% tổng dư nợ), giảm 0,74% so với cùng kỳ năm trước.

7. Đầu tư và xây dựng

9 tháng năm 2025, Hà Tĩnh tập trung giải ngân vốn đầu tư công, thu hút FDI, cải thiện môi trường đầu tư. Tỉnh đẩy mạnh cải cách thủ tục, tháo gỡ vướng mắc giải phóng mặt bằng, thúc đẩy các dự án trọng điểm về hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế. Nhiều dự án lớn như VSIP, Vinhomes Vũng Áng, Gia Lách (mở rộng), Nhiệt điện Vũng Áng II, Nhà máy pin Lithium, ô tô điện được đẩy nhanh tiến độ, kỳ vọng tạo động lực tăng trưởng, việc làm, thu ngân sách và an sinh xã hội.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh quý III/2025 ước tính đạt 16.593,22 tỷ đồng, tăng 1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn nhà nước trên địa bàn ước 4.278,70 tỷ đồng, giảm 45,72% so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân giảm do nguồn vốn thực hiện tại các dự án đường bộ cao tốc, đường dây 500KV giảm mạnh.

 Vốn ngoài nhà nước ước đạt 9.885,08 tỷ đồng, tăng 94,22% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do dự án đầu tư xây dựng Nhà máy sản xuất ô tô điện Vinfast tại thị xã Kỳ Anh đẩy nhanh tiến độ thi công nhằm đưa vào sản xuất giai đoạn 1 từ đầu tháng 7/2025, và tiếp tục triển khai giai đoạn 2 trong quý. Bên cạnh đó một số dự án khác cũng có khối lượng vốn thực hiện cao như Nhà máy sản xuất Pin VinES nâng cấp dây chuyền số 1 và lắp mới dây chuyền số 2, Nhà máy bê tông Viết Hải, Dự án D’Metropole, Tổng kho xăng dầu Giang Nam. Nguồn vốn đầu tư của hộ dân cư tăng mạnh (tăng 12,57% so quý trước, tăng 2,98% so cùng kỳ năm trước) trong bối cảnh nhu cầu xây dựng và sửa chữa nhà ở gia đình. Các chương trình ưu đãi lãi suất tín dụng thấp cho nhóm đối tượng vay xây, sửa nhà ở được các ngân hàng triển khai

 Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ước đạt 2.429,45 tỷ đồng, giảm 24,29% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực này nguồn vốn đầu tư giảm mạnh do các dự án lớn như nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II đến giai đoạn hoàn thành nên tổng vốn đầu tư đạt thấp, dự án Pin Lithium đã hoàn thành đi vào sản xuất.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trên địa bàn Hà Tĩnh 9 tháng năm 2025 ước đạt 43.915 tỷ đồng, tăng 5,45% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 10.818,43 tỷ đồng, chiếm 24,63% tổng vốn, giảm 31,50%; vốn đầu tư ngoài nhà nước ước đạt 25.015,24 tỷ đồng chiếm 56,96% tổng vốn, tăng 101,53%; vốn đầu tư thực hiện khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 8.081,33 tỷ đồng, chiếm 18,40% tổng vốn, giảm 39,87% so với cùng kỳ.

Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 9 tháng năm 2025 trên địa bàn tỉnh nhìn chung có sự chuyển dịch về cơ cấu khi nguồn vốn khối Nhà nước và khối FDI giảm mạnh. Do các dự án lớn năm ngoái như Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng II, dự án đường dây 500 KV, cao tốc Bắc-Nam giảm mạnh khối lượng thi công trong năm nay khi bước vào giai đoạn hoàn thiện. Trong khi đó, nhờ dự án Nhà máy sản xuất ô tô điện Vinfast, các khu công nghiệp và nguồn vốn hộ dân cư khiến nguồn vốn khối ngoài Nhà nước tăng mạnh.

8. Xuất nhập khẩu hàng hóa

Hoạt động xuất, nhập khẩu trong tháng 9/2025 của Hà Tĩnh ghi nhận những tín hiệu tích cực và có dấu hiệu khởi sắc hơn khi tăng khá so với tháng trước. Tuy vậy 9 tháng năm 2025 vẫn chưa đạt mức kỳ vọng so với cùng kỳ. Tổng trị giá xuất nhập khẩu trong 9 tháng chỉ đạt 3.330,15 triệu USD, giảm 27,14% so với cùng kỳ năm trước.

Riêng trong tháng 9 trị giá xuất nhập khẩu ước đạt 371,2 triệu USD, tăng 14,57% so với tháng trước, giảm 25,39% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá xuất khẩu ước đạt 180,7 triệu USD, tăng 16,15% so với tháng trước và giảm 14,48% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong tháng 9 so với cùng kỳ đều tăng mạnh như chè tăng 39,53%; dăm gỗ tăng 104,68%; hàng dệt và may mặc tăng 31%; xơ, sợi dệt các loại tăng 96,08%; riêng thép, phôi thép giảm 33,71% (đặc biệt là xuất khẩu thép từ FHS tăng 14,95% - FHS đã tái cấu trúc khách hàng, chuyển sang chủng loại và thị trường chịu ít biện pháp phòng vệ hơn). Khi sản phẩm thép, phôi thép gặp khó (do rào cản thương mại, bảo hộ từ các quốc gia nhập khẩu), tỉnh và doanh nghiệp đã có bước đi mới, tập trung phát triển các sản phẩm khác có lợi thế hơn như dăm gỗ, chè, dệt, may, xơ, sợi. Trị giá nhập khẩu trong tháng 9 ước đạt 190,5 triệu USD, tăng 13,11% so với tháng trước, giảm 33,45% so với cùng kỳ năm trước (giá trị nhập khẩu từ Formosa ước đạt 120,6 triệu USD, tăng 47,61% so với tháng trước và giảm 47,66% so với cùng kỳ năm trước).

Tính chung 9 tháng đầu năm 2025, tổng trị giá xuất nhập khẩu ước đạt 3.330,15 triệu USD, giảm 27,14% so với cùng kỳ, trong đó, trị giá xuất khẩu ước đạt 1.287,96 triệu USD, giảm 24,91%. Mặc dù mặt hàng chè tăng 1,74%; hàng dăm gỗ tăng 2,38%; hàng dệt và may mặc tăng 66,51%; hàng xơ, sợi dệt các loại tăng 84,21% nhưng ở chiều ngược lại mặt hàng thép, phôi thép giảm 34,69%. Chỉ tính riêng xuất khẩu của công ty Formosa trong 9 tháng năm 2025 ước đạt 1.048,78 triệu USD (chiếm đến 81,43% trị giá xuất khẩu toàn tỉnh), giảm tới 33,83% so với cùng kỳ cho thấy sự đóng góp cũng như sự quyết định đối với hoạt động xuất, nhập khẩu tỉnh nhà. Trị giá nhập khẩu ước đạt 2.042,19 triệu USD, giảm 28,47% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính là do FHS gặp khó khăn tìm thị trường xuất khẩu do chính sách bảo hộ, biện pháp phòng vệ thương mại tại các thị trường truyền thống; kết quả là sản lượng xuất khẩu thép phôi giảm, doanh nghiệp cắt giảm nhập nguyên liệu.

Thị trường thép 9 tháng qua đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến các hàng rào thuế quan, các biện pháp phòng vệ thương mại, xung đột chính trị, hàng loạt các chính sách mới và diễn biến không ổn định của thị trường thép, xung đột chính trị thị trường toàn cầu, sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu thụ thép. Tuy nhiên, xu hướng sẽ tích cực hơn vào khoảng cuối quý III, đặc biệt là với những nỗ lực tháo gỡ khó khăn trong lĩnh vực bất động sản, sự thúc đẩy đầu tư công, khi đó giá thép có thể có nhịp phục hồi rõ rệt hơn. Kỳ vọng sự gia tăng nguồn cung nhà ở và đầu tư công vào những tháng cuối năm sẽ là yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng sản lượng thép trong tỉnh. 

9. Giá cả, lạm phát

Diễn biến thị trường giá cả các mặt hàng trong tháng 9/2025 không có biến động lớn, chỉ số giá chung tăng nhẹ so với tháng trước. CPI bình quân quý III/2025 tăng 4,53% so với quý trước và tăng 1,68% so với cùng kỳ. Tính chung bình quân 9 tháng năm 2025 CPI tăng 3,74% so với cùng kỳ năm trước, mức biến động giá cả chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện, nước sinh hoạt. Thị trường vàng và ngoại tệ giá vẫn đang ở mức cao và ngày càng tăng mạnh vào những ngày cuối tháng.

Tháng 9 năm 2025, chỉ số CPI chung tăng tăng 0,29% so với tháng trước và tăng 1,45% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các nhóm hàng trong tháng đều không biến động quá lớn so với tháng trước, trong rổ hàng hóa, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, nhà ở và nhóm may mặc, mũ nón, giày dép dẫn đầu với mức tăng lần lượt là 0,53% và 0,41% do giá các loại lương thực, thực phẩm tăng dịp Rằm tháng Bảy và nghỉ lễ Quốc Khánh 2/9 cũng như nhu cầu mua sắm bước vào năm học mới. So với cùng kỳ năm trước mức tăng chủ yếu ở các nhóm hàng đồ uống, nhà ở vật liệu xây dựng và thuốc y tế do việc điều chỉnh tăng mức giá cả các mặt hàng điện, nước, thuốc và vật tư y tế, vật liệu xây dựng. Thị trường vàng và ngoại tệ đang có biến động lớn theo thị trường thế giới khi chỉ số giá vàng trong tháng tăng 7,29% so với tháng trước và tăng đến 46,32% so với cùng kỳ thiết lập mức đỉnh giá kỷ lục mới.

CPI bình quân quý III năm 2025 mặc dù có giảm nhẹ 0,04% so với quý trước nhưng so với cùng kỳ năm trước vẫn tăng 1,68%. Tính chung 9 tháng năm 2025, CPI bình quân tăng 3,74% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo địa bàn thì khu vực thành thị tăng 4,94%, nông thôn tăng 3,32%. Xét theo các nhóm ngành hàng, hầu hết các nhóm hàng đều có chỉ số tăng so với cùng kỳ, các nhóm hàng thiết yếu và có mức tăng mạnh có thể kể đến như: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,09%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,51%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 11,77%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,34%;… Chỉ có nhóm hàng giao thông là có chỉ số bình quân giảm 4,32% do việc điều chỉnh giá xăng dầu trong nước giảm theo sát diễn biến thị trường thế giới.

Nhìn chung, thị trường tiêu dùng, từ đầu năm đến nay các mặt hàng có mức biến động mạnh chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, đồ uống thuốc lá, điện nước sinh hoạt. Mức tăng chủ yếu trong quý I và quý II, bước sang quý III mức tăng giá cả đã ổn định hơn khi thời điểm này năm trước là kỳ giá cả biến động mạnh. Trong năm 2025, Chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức dưới 4%. Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ số giá tiêu dùng đang được theo dõi chặt chẽ. Dự báo lạm phát (Chỉ số CPI) cả năm 2025 Hà Tĩnh sẽ ở mức khoảng 3,8%, thấp hơn mục tiêu 4% của Chính phủ. Mặc dù có áp lực từ giá dịch vụ y tế và một số hàng hóa thiết yếu, nhưng giá nhập khẩu giảm và cung tiền tín dụng tăng trưởng mạnh đã giúp kiềm chế lạm phát.

Dự kiến chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trong tháng 10/2025 các loại lương thực thực, thực phẩm, đồ uống sẽ tăng khi về cuối năm thời tiết chuyển mùa, việc vận chuyển gặp nhiều khó khăn hơn, nhu cầu các nhóm mặt hàng như may mặc, thực phẩm, đồ dùng gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh đó giá cả nhóm các mặt hàng như điện, nước sinh hoạt sẽ giảm hơn khi thời tiết đã không còn quá gay gắt.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động việc làm

Tình hình lao động việc làm tại Hà Tĩnh trong quý III/2025 có chiều hướng giảm so với quý trước. Mặc dù, nhu cầu tuyển dụng lao động tại Hà Tĩnh vẫn đang rất lớn nhưng việc tuyển dụng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may ở Hà Tĩnh: do mức tiền lương, chế độ phúc lợi mà các doanh nghiệp đưa ra chưa hấp dẫn người lao động, trong khi số lượng doanh nghiệp ngày càng nhiều đã tạo ra sự cạnh tranh rất lớn trên thị trường lao động; Mặt khác, việc thực hiện tổ chức sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp được đẩy nhanh, nhiều cán bộ, công chức, viên chức từ tỉnh đến cơ sở ở Hà Tĩnh đã chủ động xin nghỉ theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP và Nghị định 67/2024/NĐ-CP.

1.1. Giải quyết việc làm

Theo số liệu Sở Nội vụ quý III/2025, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động là 5.314 người, giảm 37,67% so với quý trước và 25,19% so cùng kỳ năm 2024; so với tháng trước đều giảm ở cả ba nhóm lĩnh vực, chủ yếu ở lĩnh vực giải việc làm trong tỉnh (giảm 52,37%) và đi làm ngoài tỉnh (giảm 66,57%). Tính chung 9 tháng năm 2025, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động là 19.562 người, đạt 83,24% so với kế hoạch và tăng 6,77% so cùng kỳ năm 2024, chủ yếu tăng ở lĩnh vực giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh (tăng 26,86%) và xuất khẩu lao động (tăng 7,27%).

1.2. Lực lượng lao động

Theo kết quả điều tra lao động việc làm, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Hà Tĩnh, ước quý III năm 2025 là 536.742 người, giảm 0,53% so với quý trước và tăng 1,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lực lượng lao động là nam giới chiếm tỷ trọng 50,18%, cao hơn 0,36 điểm phần trăm so với nữ giới (chiếm 49,82%); lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị chỉ chiếm 24,1%, chủ yếu vẫn đang tập trung ở khu vực nông thôn chiếm đến 75,9%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính là 533.688 người, tăng 1,18% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, lực lượng lao động nam là 271.414 người, chiếm 50,86%; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 129.539 người, chiếm 24,27%.

Quý III năm 2025, có đến 55,5% dân số 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động, giảm 0,39 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,41 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2025 tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 55,27%, tăng 0,54 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2024, trong đó, tỷ lệ tham gia của nam cao hơn 5,15 điểm phần trăm so với nữ; tỷ lệ tham gia của khu vực thành thị cao hơn 7,01 điểm phần trăm so với nông thôn.

1.3. Lao động có việc làm

Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm ở Hà Tĩnh ước tính quý III năm 2025 là 518.671 người, chiếm 96,63% trong tổng số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; giảm 0,47% so với quý trước và tăng 2,15% so với cùng kỳ năm 2024. Trong tổng số, lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 123.375 người, chiếm 23,79% trong tổng số; lao động có việc làm ở nam giới là 264.277 người, chiếm 50,95%. Lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng là 28,59% (tương ứng 148.275 người), giảm 0,03 điểm phần trăm so với quý trước; công nghiệp - xây dựng chiếm 28,86% (tương ứng 149.679 người), tăng 0,35 điểm phần trăm; dịch vụ chiếm 42,55% (tương ứng 220.717 người), giảm 0,32 điểm phần trăm.

Tính chung 9 tháng năm 2025, lao động có việc làm đạt 517.540 người, chiếm 96,97% tổng số lực lượng lao động và tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 2024. Trong tổng số, lao động có việc làm ở thành thị là 124.649 người, chiếm 24,08%; ở nam giới là 265.696 người, chiếm 51,34%. Lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng 28,7% (tương ứng 148.544 người), giảm 0,53 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; công nghiệp - xây dựng chiếm 28,63% (tương ứng 148.160 người), tăng 0,13 điểm phần trăm; dịch vụ chiếm 42,67% (tương ứng 220.836 người), tăng 0,4 điểm phần trăm.

1.4. Tình hình thất nghiệp, thiếu việc làm

Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở Hà Tĩnh, ước tính quý III/2025 là 2,48%, tăng 0,03 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 2,47%, giảm 0,01 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ thất nghiệp: Trong quý III dân số lao động không có việc làm (thất nghiệp) là 18.071 người, chiếm 3,37% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên, giảm 0,06 điểm phần trăm so quý trước và 1,04 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; có đến 66,86% lao động thất nghiệp cư trú ở nông thôn (tương đương 12.083 người), còn nữ giới chiếm 72,08% (tương đương 13.026 người). Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp quý III ước tính là 4,29%, giảm 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,25 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng năm 2025, số người không có việc làm (thất nghiệp) ước tính là 16.148 người, chiếm 3,03% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và giảm 0,68 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; lao động thất nghiệp chủ yếu là ở khu vực nông thôn chiếm đến 69,71% (tương đương 11.257 người) và nữ giới chiếm 64,59% (tương đương 10.430 người). Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp 9 tháng năm 2025 ước tính là 4,32%, giảm 0,18 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình Trợ cấp thất nghiệp: Đã giải quyết kịp thời chính sách bảo hiểm thất nghiệp, đẩy mạnh tư vấn, giới thiệu việc làm góp phần tích cực hỗ trợ người lao động trong thời gian mất việc, giúp họ ổn định cuộc sống. Số người được hưởng trợ cấp thất nghiệp phát sinh mới trong quý III/2025 là 1.404 người, giảm 1,13% so với quý trước; tính đến tháng 9 năm 2025 có 2.728 người được hưởng trợ cấp thất nghiệp, so với thời điểm tháng 6/2025 tăng 597 người được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

2. Đời sống dân cư và đảm bảo an sinh xã hội

Nhìn chung 9 tháng năm 2025, đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh cơ bản ổn định, kinh tế tăng trưởng khá, việc làm và thu nhập từng bước cải thiện. Tuy nhiên, bão số 5, số 6 xảy ra cuối tháng 8 gây mưa lớn, ngập úng hàng nghìn héc-ta lúa, hoa màu, làm hư hỏng nhà cửa, hạ tầng, ảnh hưởng nặng nề đến sinh hoạt của người dân. Bên cạnh đó dịch tả lợn châu Phi, dịch lở mồm long móng diễn biến phức tạp gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Trước tình hình này, tỉnh đã ra Quyết định 2165/QĐ-UBND ngày 28/8/2025 về việc trích ngân sách dự phòng hơn 8,2 tỷ đồng để hỗ trợ các địa phương chi trả cho chủ chăn nuôi có gia súc phải tiêu hủy do dịch bệnh, triển khai Nghị định 116/2025/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ khắc phục dịch bệnh động vật, mở rộng tín dụng chính sách cho hộ nghèo, ban hành Quyết định 45/2025/QĐ-UBND hỗ trợ người đã có nhà ở nhưng cách xa nơi làm việc tối thiểu 30 km trở lên và khoảng cách vị trí nơi có nhà ở xã hội được bán, cho thuê mua đến địa điểm làm việc tối đa 15km. Các chính sách này góp phần khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, giúp giảm bớt khó khăn, ổn định sinh kế, hỗ trợ tái sản xuất sau thiên tai, dịch bệnh nhằm nâng cao chất lượng đời sống nhân dân tỉnh nhà.

Quý III và 9 tháng năm 2025 việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời; các cấp, các ngành đã làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà gia đình người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được quan tâm chu đáo, cụ thể:

Hỗ trợ cho người có công và thân nhân của người có công với cách mạng: Quý III/2025, toàn tỉnh đã chi trả trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ đột xuất với tổng số tiền là 382,6 tỷ đồng, so với quý trước giảm 84,52 tỷ đồng (giảm 18,09%) và so với cùng kỳ năm trước tăng 53,78 tỷ đồng (tăng 16,36%). Tính chung 9 tháng năm 2025, chi trả trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ đột xuất với tổng số tiền là 1.105,484 tỷ đồng. Trong đó, trợ cấp phụ cấp hàng tháng chi trả 1.018,994 tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất với số tiền 90,84 tỷ đồng.

Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội quy định tại các chương 2, 3, 4 và 5 của Nghị định 20/2021/NĐ-CP: Quý III/2025, toàn tỉnh đã chi trả trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ đột xuất cho các đối tượng với tổng số tiền là 154 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng năm 2025, tổng số tiền chi trả là 488,72 tỷ đồng. Trong đó, trợ cấp phụ cấp hàng tháng chi trả với tổng số tiền 455,122 tỷ đồng và nguồn hỗ trợ đột xuất 33,60 tỷ đồng.

Hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội không trùng với các đối tượng tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP: Quý III năm 2025, toàn tỉnh đã chi trả trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ đột xuất cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng khác với tổng số tiền là 2,76 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng năm 2025, tổng số tiền chi trả là 47,99 tỷ đồng.

Tình hình cấp phát miễn phí thẻ bảo hiểm y tế: 9 tháng năm 2025, Hà Tĩnh đã cấp phát miễn phí khoảng 389.162 thẻ bảo hiểm y tế khám chữa bệnh miễn phí. Trong đó, cấp 11.364 thẻ bảo hiểm cho hộ nghèo; 25.304 thẻ cho hộ cận nghèo; 138.831 thẻ cho trẻ em dưới 6 tuổi; 41.091 thẻ cho người có công và 172.572 thẻ cho các đối tượng khác.

Tình hình hỗ trợ gạo: 9 tháng năm 2025, tỉnh Hà Tĩnh đã hỗ trợ 349,7 triệu đồng mua 23,3 tấn gạo cho các hộ dân tộc Chứt thuộc huyện Hương Khê; các hộ nghèo, hộ cận nghèo tại huyện Cẩm Xuyên và huyện Đức Thọ. Việc hỗ trợ gạo tại địa phương được thực hiện trong quý I/2025.

Hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường, nổi bật khác: Quý III năm 2025 tỉnh hỗ trợ với tổng số tiền là 407,87 triệu đồng. Tính chung 9 tháng năm 2025 hỗ trợ 572,87 triệu đồng, trong đó chủ yếu hỗ trợ cho các đối tượng bị ảnh hưởng thiên tai do hạn hán, xâm nhập mặn và chủ chăn nuôi có gia súc phải tiêu hủy do dịch bệnh. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9 Hà Tĩnh thực hiện chi trả theo Nghị quyết số 263/NQ-CP của Chính phủ về việc tặng quà nhân dân theo đó tỉnh đã chi trả 160,23 tỷ đồng.

3. Giáo dục

Năm học 2024 - 2025, Hà Tĩnh tiếp tục đạt kết quả đáng kể trong giáo dục mầm non và phổ thông: Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đến trường đạt 100%), trẻ 5 tuổi hoàn thành chương trình giáo dục mầm non đạt 100%; kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2024 - 2025 Hà Tĩnh đạt giải 84/98 học sinh dự thi, tỷ lệ 85,71%, tăng 08 giải so với năm trước; Hà Tĩnh đứng vị trí thứ 3 toàn quốc về tỷ lệ đạt giải; 01 học sinh đạt Huy chương Vàng Olympic Toán học Quốc tế. Kết quả Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025 Hà Tĩnh có điểm trung bình các môn thi đạt 6,54 đứng thứ 02 toàn quốc với số lượng thí sinh được công nhận tốt nghiệp THPT là 16.799 thí sinh, chiếm tỷ lệ 99,82%.

Trong tháng, ngành giáo dục Hà Tĩnh long trọng tổ chức lễ khai giảng tại 668 trường với gần 390.000 cán bộ, giáo viên và học sinh tham gia. Mặc dù bão số 5 làm hư hại 286 điểm trường, 458 phòng học, các địa phương đã khắc phục kịp thời để lễ khai giảng diễn ra an toàn, đồng bộ. Năm học 2025-2026, ngoài mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học, tỉnh còn triển khai chính sách miễn học phí cho toàn bộ học sinh công lập và hỗ trợ học sinh ngoài công lập theo Nghị định 238/2025/NĐ-CP, góp phần giảm gánh nặng cho phụ huynh và đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục.

Công tác giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên: Đến nay, tổng số tuyển sinh các trình độ: 11.070 người (trong đó cao đẳng: 1.002 người; trung cấp: 2.917 người; sơ cấp: 240 người; dưới 03 tháng: 6.911 người); tổng số người tốt nghiệp: 8.623 người (trong đó cao đẳng 536 người, trung cấp 1.600 người; sơ cấp 994 người; dưới 03 tháng 5.493 người). Thực hiện cấp bù miễn giảm học phí cho các trường cao đẳng, trung cấp.

4. Hoạt động y tế

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong quý III/2025, trên địa bàn phát hiện 2 ca nhiễm mới HIV, không có ca nào chuyển sang và chết do AIDS. So với quý trước số ca nhiễm mới giảm 3 ca và giảm 5 người chết do AIDS. Tính chung 9 tháng năm 2025 đã phát hiện 12 ca nhiễm mới HIV/AIDS, không có ca nào chuyển sang AIDS và có 5 ca chết vì AIDS, so với cùng kỳ năm trước giảm 14 ca nhiễm mới, giảm 14 ca chuyển sang AIDS và số ca chết vì AIDS giữ nguyên không thay đổi.

Công tác an toàn thực phẩm: Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm luôn được các cấp ngành quan tâm, cơ bản trong tháng 9 và quý III không ghi nhận vụ ngộ độc thực phẩm tập thể nào xảy ra, cả quý III chỉ ghi nhận 51 ca ngộ độc đơn lẻ. Tính chung 9 tháng năm 2025, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra 1 vụ ngộ độc thực phẩm tập thể, làm 4 người bị ngộ độc và có 528 ca ngộ độc đơn lẻ, không có ca nào tử vong vì ngộ độc. So với cùng kỳ năm trước số vụ ngộ độc tập thể giảm 2 vụ và 9 người bị ngộ độc tập thể; giảm 153 người ngộ độc đơn lẻ và số người chết vì ngộ độc thực phẩm không xảy ra.

Tình hình dịch bệnh khác: Trong quý III ghi nhận 42 ca mắc sốt xuất huyết. Ngoài sốt xuất huyết, các bệnh truyền nhiễm mùa hè như tiêu chảy, cúm, viêm đường hô hấp... có phát sinh nhưng được theo dõi sát sao nên không ghi nhận ổ dịch lớn. Tính chung 9 tháng năm 2025, toàn tỉnh có 50 ca mắc sốt xuất huyết, 59 ca quai bị, 133 ca thủy đậu, hơn 10.200 ca mắc cúm,... các ca bệnh đều được phát hiện và điều trị kịp thời, không có người chết do dịch bệnh.

Nhìn chung, 9 tháng năm 2025, ngành y tế đã chủ động tham mưu các phương án tiếp tục ứng phó hiệu quả với các dịch bệnh, đặc biệt là dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi và tái nổi có thể xảy ra. Việc giám sát phòng, chống dịch bệnh được triển khai tích cực, đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở. Hoạt động phòng, chống bệnh không lây nhiễm tiếp tục duy trì hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số toàn diện trong toàn ngành; xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, đồng bộ và an toàn. Đặc biệt, toàn ngành cần tập trung cao cho việc triển khai và hoàn thành bệnh án điện tử trước ngày 30/9/2025 theo đúng chỉ đạo của Bộ Y tế và UBND tỉnh. Cùng với đó, việc triển khai khám chữa bệnh bằng thẻ CCCD, kê đơn thuốc điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, cùng đầu tư nâng cấp bệnh viện và chuyển giao kỹ thuật tuyến trên, đã góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

5. Hoạt động văn hoá, thể thao

Hoạt động văn hóa: Nhìn chung đời sống văn hóa, tinh thần của người dân Hà Tĩnh luôn được quan tâm, chú trọng. Trong 9 tháng năm 2025, hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch của tỉnh Hà Tĩnh diễn ra sôi nổi, đạt nhiều kết quả nổi bật. Các hoạt động văn hóa được triển khai đồng bộ, gắn với tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước. Nhiều lễ hội lớn được tổ chức quy mô, an toàn, thu hút du khách như Lễ hội Chùa Hương Tích, Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông, các lễ hội khai trương du lịch biển Xuân Thành, Thiên Cầm, Kỳ Anh...

Công tác bảo tồn, phát huy di sản được chú trọng với hơn 680 di tích được quan tâm tu bổ, 100% di tích được quản lý, bảo vệ và khai thác theo đúng quy định. Nhiều di tích trọng điểm đã được tu bổ, tôn tạo gắn với phát triển du lịch văn hóa – lịch sử nông thôn, góp phần gìn giữ giá trị văn hóa và thu hút khách tham quan. Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì, tỷ lệ gia đình và thôn văn hóa đạt trên 95%, các sản phẩm du lịch biển, tâm linh, nông thôn tiếp tục phát triển.

 

Hoạt động thể dục thể thao:

Về thể thao thành thích cao 9 tháng năm 2025 đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia thi đấu 42 giải quốc gia, quốc tế giành 214 huy chương (81 HCV - 59 HCB - 74 HCĐ); giải vô địch quốc gia Karate khu vực miền Trung, Tây Nguyên xếp thứ nhì toàn đoàn; giải vô địch trẻ Karate quốc gia lần thứ XXXI năm 2025 xếp thứ ba toàn đoàn; giải Đua thuyền Rowing vô địch các tay chèo xuất sắc xếp thứ 3 toàn đoàn; giải bóng đá U11, U13, U15, U19 vào Vòng chung kết; đội Bóng chuyền nam Hà Tĩnh tham gia giải bóng chuyền Hạng A quốc gia 2025, sau vòng bảng lọt vào Vòng Chung kết chuẩn bị thi đấu vào tháng 10/2025 tại Hà Tĩnh; giải vô địch Kickboxing miền Trung Tây Nguyên đứng thứ 3 toàn đoàn ở nội dung nữ.

Về giải đấu thể thao chuyên nghiệp: Trên địa bàn đã tổ chức thành công các trận thi đấu bóng đá quốc gia trên sân vận động Hà Tĩnh. Câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Hồng Lĩnh Hà Tĩnh tham gia thi đấu giải Vô địch Quốc gia mùa giải 2024/25, kết quả xếp thứ 5/14; hiện nay đang tham gia thi đấu giải Vô địch Quốc gia mùa giải 2025/26, sau 3 vòng tạm xếp 6/14 và thi đấu ở giải Cúp Quốc gia 2025/2026.

Phong trào thể thao quần chúng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục duy trì và phát triển sôi nổi, thu hút đông đảo cán bộ, công chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân tham gia.

6. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Tình hình an toàn giao thông:

Quý III năm 2025, trên địa bàn tỉnh xảy ra 77 vụ tai nạn đường bộ, làm 60 người chết, 57 người bị thương (giảm 13 vụ so với quý trước, tăng 5 người chết, tăng 1 người bị thương so với quý trước. Cũng trong quý này không xảy ra vụ tai nạn đường sắt nào, so với quý trước giảm 1 vụ, giảm 1 người bị thương. Tính chung 9 tháng năm 2025, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra 255 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 181 người chết, 148 người bị thương (giảm 63 vụ, tăng 9 người chết, giảm 50 người bị thương so với cùng kỳ năm trước) và 02 vụ tai nạn đường sắt, làm 1 người bị thương (giảm 1 vụ và giảm 1 người chết so với cùng kỳ năm trước).

Tình hình cháy, nổ:

Trong quý III/2025 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra 23 vụ cháy, không gây thương tích về người. Giá trị thiệt hại ước tính 977,6 triệu đồng (giảm 3 vụ, giảm 2 người bị thương so với quý trước). Tính chung 9 tháng năm 2025, trên địa bàn đã xảy ra 61 vụ cháy, làm 2 người bị thương, giá trị thiệt hại ước tính 1.559,72 triệu đồng (giảm 4 vụ, tăng 2 người bị thương so với cùng kỳ năm trước). Cả trong quý III và 9 tháng năm 2025 trên địa bàn không xảy ra vụ nổ nào.

Vi phạm môi trường:

Trong tháng 9, toàn tỉnh phát hiện 60 vụ vi phạm môi trường, tăng 43 vụ so với tháng trước và tăng 47 vụ so với cùng kỳ năm trước; đã xử lý 44 vụ, tăng 24 vụ so với tháng trước và tăng 28 vụ so với cùng kỳ năm trước với tổng số tiền xử phạt là 145,23 triệu đồng, giảm 1.191,78 triệu đồng (giảm 89,14%) so với tháng trước và giảm 364,23 triệu đồng (giảm 71,49%) so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2025, toàn tỉnh đã phát hiện 255 vụ, xử lý 210 vụ với tổng số tiền xử phạt đạt 3.204,74 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước tăng 23 vụ phát hiện, giảm 4 vụ đã xử lý nhưng tổng số tiền xử phạt tăng 1.921,24 triệu đồng (tăng 149,69%).

7. Tình hình thiên tai

Trong 9 tháng năm 2025, trên địa bàn đã xảy ra 03 cơn bão, bao gồm: Bão số 5 (bão Kajiki), bão số 6 (bão Nongfa) và bão số 10 (Bualoi) gây mưa lớn trên diện rộng đã gây thiệt hại về người và tài sản. Ước tính thiệt hại có 03 người chết và bị thương 62 người; 10 ngôi nhà bị sập, 129.963 ngôi nhà bị thiệt hại; Về nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: 40.140 ha lúa Hè thu bị ngập, hư hỏng; 3.584 ha rau màu bị ngập, hư hỏng; 4.429 ha cây ăn quả và 23.000ha cây lâm nghiệp bị gãy, đổ; 1.283 ha diện tích nuôi trồng thủy sản và nhiều lồng bè bị thiệt hại; 99 tàu cá bị chìm đắm, hư hỏng; gia súc bị chết, cuốn trôi 250 con; gia cầm bị chết, cuốn trôi 86.200 con; Về cơ sở hạ tầng: 709 điểm trường; 127 cơ sở y tế, khám, chữa bệnh; 220 công trình văn hóa, 48 di tích lịch sử văn hóa bị hư hỏng; 151.534 cây xanh, cây bóng mát ở khu vực đô thị, nông thôn và trên các tuyến giao thông bị đổ, gãy; 4.483 cột điện các loại bị đổ gãy, 171km đường dây điện bị đứt, 7 trạm biến thế; 36 trụ sở cơ quan, 34 chợ, 18 nhà kho, phân xưởng bị thiệt hại; 85 cột ăng ten, 58 cột treo cáp bị đổ, gãy; trạm phát sóng Thiên Tượng và cơ sở 2 của Báo Hà Tĩnh cũng bị hư hỏng; 187m mái đê cấp IV trở xuống bị bong xô; 480m kè, 3.420m kênh mương hư hỏng, 13 cầu và 3 cống giao thông bị hư hỏng, sạt lở; 65 cụm đèn tín hiệu bị hư hỏng, nhiều tuyến đường giao thông địa phương bị ngập sâu, sạt lở, khoảng 700 m3 đất đá bị sạt lở cuốn trôi; hơn 1.800 m3 đất đá sạt lở bờ sông…Tổng giá trị thiệt hại ước tính do bão là 9.294 tỷ đồng. Trong đó, ước tính bão số 5 thiệt hại 2.900 tỷ đồng và bão số 10 thiệt hại 6.000 tỷ đồng.

Ngoài ra, trong 9 tháng năm 2025 cũng xảy ra 01 vụ mưa lớn, sét đánh (xảy ra ngày 24-25/5) gây cháy hoàn toàn 01 ngôi nhà, thiệt hại 2.250 ha lúa vụ xuân bị ngập; 397 ha hoa màu bị ngập nước, gia súc bị chết, cuốn trôi 35 con; gia cầm bị chết, cuốn trôi 14.321 con, tổng giá trị thiệt hại ước tính 40,33 tỷ đồng. Và 07 vụ mưa lốc, giông, sét, mưa đá khiến 06 người chết do sét đánh, 02 người mất tích trên biển; 154 nhà bị thiệt hại, 01 trường học bị tốc mái, hoa màu bị thiệt hại 7 ha; gia súc bị chết, cuốn trôi 2 con, tổng giá trị thiệt hại ước tính 4,73 tỷ đồng.

Trên đây là báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2025 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh./.

 

Xem nhiều nhất