Hà Tĩnh bổ sung 89 giáo viên mầm non và phổ thông công lập   |    Pháo hoa rực sáng bầu trời Hà Tĩnh đón chào năm mới Giáp Thìn 2024   |    Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tăng cường bảo đảm trật tự, ATGT   |    Dịch bệnh truyền nhiễm dự báo tiếp tục có nguy cơ xuất hiện, lây lan các biến thể mới   |    Xây dựng các bảng lương mới áp dụng từ giữa năm 2024   |   

Nước Mỹ và nỗi ám ảnh trần nợ công

  

07:41 10/05/2023

Nước Mỹ đang chứng kiến một cuộc đối đầu quyết liệt nhất trong nhiều năm trở lại đây về vấn đề trần nợ công. Nhiều tác động tiêu cực sẽ xảy đến nếu Washington vỡ nợ.

Khi trần nợ công tiếp tục bị "vũ khí hóa"

Quốc hội Mỹ năm nay lại một lần nữa rơi vào một cuộc tranh cãi quen thuộc: đàm phán nâng trần nợ công. Nói một cách đơn giản, nếu các nhà lập pháp thuộc hai đảng Dân chủ và Cộng hòa không thể đi đến thống nhất về việc đình chỉ hoặc tăng trần nợ, chính phủ liên bang sẽ đối mặt với nguy cơ vỡ nợ đối với các khoản vay của mình. Điều này có thể gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế lớn.

Kể từ năm 1960 tới nay, Quốc hội Mỹ đã thực hiện 78 lần nâng trần nợ công, và không phải lần nào cũng diễn ra suôn sẻ (Nguồn: Yahoo News)

Vấn đề được đặt ra không phải là liệu có nên nâng trần nợ hay không? Mà là tăng như thế nào?

Theo luật của Mỹ, trần nợ công hay giới hạn nợ là mức trần pháp lý về số tiền mà chính phủ Mỹ có thể vay. Mỗi khi khối nợ của chính phủ Mỹ đạt đến mức trần, việc tăng trần nợ công sẽ được đưa ra bỏ phiếu tại Quốc hội, và cần phải đạt được sự ủng hộ của cả Thượng viện và Hạ viện.

Kể từ năm 1960 tới nay, Quốc hội Mỹ đã có 78 lần nâng trần nợ, trong đó, phần lớn diễn ra suôn sẻ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác, đặc biệt là những năm gần đây, cuộc đàm phán nâng trần nợ đã trở thành một chu kỳ nguy hiểm, gây tranh cãi tại Washington, khi các thành viên của cả hai đảng đều "vũ khí hóa" vấn đề này.

Theo đó, Đảng không nắm giữ quyền lực tại Nhà Trắng hoặc chiếm thiểu số trong Quốc hội Mỹ thường tận dụng vấn đề nâng trần nợ để làm đòn bẩy đàm phán nhằm tìm kiếm các nhượng bộ chính sách hoặc phát đi những thông điệp chính trị. Các cuộc đàm phán về nâng trần nợ do vậy thường kéo dài và căng thẳng, và bất kỳ tính toán sai lầm nào của các nhà lập pháp đều có thể khiến chính phủ Mỹ đối mặt với rủi ro vỡ nợ.

Lịch sử cho thấy, đảng Cộng hòa thường có nhiều khả năng dùng vấn đề tăng trần nợ để gây sức ép lên chính quyền của đảng Dân chủ. Dĩ nhiên, đảng Dân chủ cũng làm điều tương tự trong các thời kỳ nắm quyền của đảng Cộng hòa, dù ở mức độ thấp hơn. Bản thân các Tổng thống phe Dân chủ là Joe Biden và Barack Obama cũng từng nằm trong số các thượng nghị sĩ phản đối việc nâng trần nợ hồi năm 2006 khi đảng Cộng hòa nắm quyền kiểm soát Quốc hội.

Bước ngoặt đáng chú ý hơn cả là cuộc chiến nâng trần nợ năm 2011 - khi một số nhà lập pháp dường như đã thực sự sẵn sàng cho khả năng chính phủ vỡ nợ. Năm đó, các đảng viên Cộng hòa đã từ chối tăng trần nợ cho đến khi Tổng thống Obama đồng ý cắt giảm chi tiêu chỉ 72 giờ trước khi chính phủ liên bang thực sự vỡ nợ.

Hồi năm 2011, nước Mỹ đã tiến sát bờ vực vỡ nợ trước khi cựu Tổng thống Barack Obama chấp nhận đề xuất cắt giảm chi tiêu của phe Cộng hòa (Nguồn: Reuters)

Điều này thậm chí đã buộc Standard & Poor's đã phải hạ xếp hạng tín dụng của Mỹ, một động thái khiến thị trường chứng khoán lao dốc. Điều này cũng khiến chi phí đi vay của chính phủ Mỹ trở nên đắt đỏ hơn, tăng thêm 1,3 tỷ USD vào năm 2012 và tiếp tục leo thang trong những năm sau đó, về cơ bản xóa hết thành quả cắt giảm chi tiêu đạt được thông qua đàm phán trần nợ.

Ông Josh Bivens, giám đốc nghiên cứu tại Viện Chính sách Kinh tế nhận định, "Tôi chắc chắn rằng năm 2011 là một bước tiến trong việc trần nợ được vũ khí hóa mạnh mẽ như thế nào để đảm bảo các mục tiêu chính sách đảng phái".

Những bế tắc trong đàm phán

Vấn đề đàm phán nâng trần nợ lần này không có nhiều khác biệt với năm 2011, khi đảng Cộng hòa cũng yêu cầu chính phủ phải cắt giảm đáng kể các khoản chi tiêu, coi đây là điều kiện để nâng mức trần nợ. Hồi tháng trước, Hạ viện Mỹ do phe Cộng hòa nắm thế đa số đã thông qua đề xuất tăng trần nợ, nhưng đi kèm với đề xuất cắt giảm chi tiêu 4.800 tỷ USD.

Hôm 26/4, Hạ viện Mỹ do đảng Cộng hòa kiểm soát đã thông qua đề xuất tăng trần nợ đi kèm với cắt giảm chi tiêu (Nguồn: C-SPAN)

Điều kiện "thắt lưng, buộc bụng" này của phe Cộng hòa bị Tổng thống Biden và phe Dân chủ phản đối kịch liệt. Các đảng viên Dân chủ, do Tổng thống Joe Biden lãnh đạo, nhấn mạnh rằng Quốc hội Mỹ phải thông qua việc tăng trần nợ một cách vô điều kiện, không đi kèm bất cứ sự đánh đổi nào, như đã từng làm dưới thời cựu Tổng thống Donald Trump.

Tổng thống Mỹ Joe Biden đã nhấn mạnh việc để xảy ra tình trạng vỡ nợ là một hành động "vô trách nhiệm". Ông nói: "Điều cuối cùng mà đất nước này cần sau tất cả những gì chúng ta đã trải qua là một cuộc khủng hoảng giả tạo và đây chính là một cuộc khủng hoảng giả tạo như vậy".

Bế tắc trong đàm phán trần nợ đã gia tăng khi 43 Thượng nghị sỹ Cộng hòa bao gồm lãnh đạo thiểu số tại Thượng viện Mitch McConnell hôm thứ Bảy tuần trước đã gửi thư lên lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện Chuck Schumer nhấn mạnh sự thống nhất của các nghị sỹ Cộng hòa tại cả hai viện quốc hội trong việc ủng hộ cắt giảm chi tiêu và cải cách cấu trúc ngân sách làm điều kiện đàm phán trần nợ. Họ tuyên bố sẽ không thảo luận bất cứ dự luật nào liên quan tới trần nợ mà không tính đến điều kiện trên.

Lãnh đạo phe thiểu số tại Thượng viện Mỹ Mitch McConnell phản đối việc tăng trần nợ mà không đi kèm cắt giảm chi tiêu (Nguồn: CNBC)

Dự kiến trong ngày 9/5 theo giờ Mỹ, Tổng thống Joe Biden sẽ có cuộc gặp với lãnh đạo quốc hội thuộc cả hai đảng nhằm tìm kiếm giải pháp cho cuộc khủng hoảng trần nợ hiện nay. Cuộc gặp này diễn ra chỉ 1 tuần sau khi Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen thông báo Mỹ có nguy cơ vỡ nợ từ ngày 1/6 nếu trần nợ không được nâng lên.

Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy tại Washington, Mỹ (Nguồn: Reuters)

Cảnh báo này đã gia tăng sức ép buộc Quốc hội và Nhà Trắng nỗ lực tìm kiếm một thỏa thuận và tránh một thảm họa kinh tế. Tuy nhiên, cho đến sát cuộc họp, cả hai phe Dân chủ và Cộng hòa vẫn chưa bên nào cho thấy dấu hiệu nhượng bộ.

Dẫu vậy, theo Thượng nghị sĩ Cộng hòa Thom Tillis, ngay cả khi cuộc đàm phán khó có thể đưa ra một giải pháp mang tính đột phá, nó vẫn là điều cần thiết để xoa dịu tâm lý giới đầu tư. "Chúng ta cần phải xoa dịu nỗi lo ngại, bằng việc đưa ra những tuyên bố rằng: chúng tôi đã tìm thấy một số điểm đồng thuận và sẽ tiếp tục thảo luận để đi đến giải pháp."

Nước Mỹ vỡ nợ - khi nào và như thế nào?

Về mặt kỹ thuật, Mỹ đã chạm trần nợ 31.400 tỷ USD hồi tháng 1 năm nay, và Bộ Tài chính Mỹ đã buộc phải sử dụng các biện pháp đặc biệt để có thể tiếp tục trang trải cho các hoạt động của chính phủ. Về cơ bản, đây là các biện pháp kế toán giúp chính phủ Mỹ có thể "câu giờ" trước khi thực sự cạn kiệt nguồn tài chính.

Mỹ đã trạm mức trần nợ công 31.400 tỷ USD hồi tháng 1 năm nay và có thể rơi vào tình trạng vỡ nợ sớm nhất từ ngày 1/6 (Nguồn: AFP)

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen, các biện pháp như vậy sắp sửa không còn tác dụng, và thời điểm chính phủ liên bang có thể cạn tiền và không thể thanh toán các nghĩa vụ nợ sớm nhất sẽ là ngày 1/6 tới, mặc dù thời hạn thực tế có thể kéo dài lâu hơn. Trong một tuyên bố, bà Yellen cảnh báo: "Quốc hội cần phải giải quyết vấn đề này. Nếu họ không làm điều đó, chúng ta sẽ gặp phải một thảm họa kinh tế và tài chính do chính chúng ta gây ra. Tổng thống và Bộ Tài chính Mỹ không thể thực hiện hành động nào để ngăn chặn thảm họa đó".

Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cảnh báo nền kinh tế Mỹ sẽ đối mặt với thảm họa nếu Quốc hội không nâng trần nợ công (Nguồn: Reuters)

Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Jerome Powell cũng nhận định, nếu các bên không đạt được giải pháp cho lần khủng hoảng trần nợ này, thị trường chứng khoán Mỹ sẽ chao đảo, người hưởng các khoản chi trả từ ngân sách liên bang sẽ không còn được nhận tiền, nhiều bộ phận của Chính phủ sẽ phải ngừng hoạt động, và nền kinh tế Mỹ sẽ phải hứng chịu những tổn thất lâu dài.

Trong một đánh giá đưa ra hồi tháng 3, Moody's Analytics đã cảnh báo rằng một vụ vỡ nợ kéo dài có thể khiến hơn 7 triệu người Mỹ thất nghiệp, và khiến quá trình suy thoái kinh tế diễn ra nhanh hơn. Chuyên gia kinh tế trưởng Mark Zandi tại Moody’s Analytics lo ngại: "Chúng ta cần chấm dứt tình trạng bế tắc chính trị này càng sớm càng tốt. Nếu không, nền kinh tế có thể rơi vào suy thoái".

Trong một báo cáo mới công bố, Hội đồng Cố vấn kinh tế Nhà Trắng cũng đã chỉ ra những tác động tiêu cực mà nền kinh tế Mỹ sẽ phải gánh chịu trong trường hợp tránh được vỡ nợ, vỡ nợ ngắn hạn và vỡ nợ kéo dài.

Trong tình huống xấu nhất là vỡ nợ kéo dài, các chuyên gia kinh tế của Nhà Trắng cho biết khoảng 8,3 triệu người sẽ mất việc, GDP giảm 6,1 điểm phần trăm và thị trường chứng khoán "bốc hơi" gần một nửa giá trị. Tỷ lệ thất nghiệp trong trường hợp này sẽ tăng tới 5 điểm phần trăm. Báo cáo cũng nhấn mạnh kịch bản vỡ nợ kéo dài sẽ khiến Mỹ rơi vào tình trạng bế tắc suốt 3 tháng.


Hội đồng Cố vấn Kinh tế Nhà Trắng ước tính, vỡ nợ kéo dài sẽ khiến nền kinh tế tổn thất 8,3 triệu việc làm và 6,1 điểm % GDP (Nguồn: White House)

Đối với trường hợp vỡ nợ ngắn hạn, nền kinh tế sẽ mất khoảng nửa triệu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng 0,3 điểm phần trăm và GDP suy giảm 0,6 điểm %.

Thậm chí, ngay cả khi Mỹ không chịu cảnh vỡ nợ, Hội đồng Cố vấn kinh tế Nhà Trắng vẫn dự báo rằng, sẽ có khoảng 200 nghìn người bị mất việc làm, khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng 0,1 điểm % và GDP trong năm bị suy giảm 0,3 điểm phần trăm.

Cuộc khủng hoảng trần nợ công được dự báo có thể khiến nhiều người lao động Mỹ mất việc làm (Nguồn: CNBC)

Với nhiều chuyên gia, đây mới chỉ là những tác động trong ngắn hạn, bởi việc đánh đổi giữa cắt giảm chi tiêu và nâng trần nợ còn có thể mở ra quãng thời gian nhiều năm thắt chặt ngân sách với những tác động lâu dài.

Theo chuyên gia Josh Bivens, chi tiêu chính phủ thường tăng sau suy thoái nhưng chi tiêu bình quân đầu người của Chính phủ liên bang Mỹ trên thực tế đã giảm sau cuộc khủng hoảng trần nợ năm 2011, dẫn tới sự phục hồi chậm hơn của nền kinh tế và thị trường lao động.

"Khi những cắt giảm đó được thực hiện, nền kinh tế Mỹ vẫn còn đang ở trong tình trạng khá yếu và chưa phục hồi hoàn toàn sau cuộc suy thoái hậu khủng hoảng tài chính. Việc cắt giảm chi tiêu đã khiến cho sự phục hồi mất nhiều thời gian hơn. Trong 6 - 7 năm sau đó, những hàng hóa và dịch vụ công thực sự có giá trị đã không được cung cấp vì chi tiêu bị cắt giảm quá mạnh", ông Josh Bivens nhận định.

Tác động đối với thế giới khi Mỹ vỡ nợ

Về lý thuyết, việc nước Mỹ vỡ nợ, dù là vỡ nợ kỹ thuật hay vỡ nợ thực sự sẽ không chỉ ảnh hưởng đến nước Mỹ, mà còn tác động tới cả kinh tế toàn cầu.

Mỹ hiện đang là nền kinh tế lớn nhất thế giới và hơn một nửa số dự trữ ngoại tệ của thế giới là đồng dollar Mỹ. Do vậy, bất kỳ tác động nào đến niềm tin vào nền kinh tế Mỹ, cho dù do vỡ nợ hay mất ổn định, rơi vào suy thoái đều có thể khiến các nhà đầu tư bán tháo trái phiếu chính phủ Mỹ, dẫn tới sự suy yếu của đồng dollar Mỹ.

Việc chính phủ Mỹ vỡ nợ sẽ dẫn tới sự suy yếu của đồng dollar Mỹ hiện đang chiếm hơn một nửa dự trữ ngoại hối toàn cầu (Nguồn: Reuters)

Việc giá trị của đồng bạc xanh giảm đột ngột sẽ khiến các nền kinh tế kém và đang phát triển có nợ công cao phải trả nợ nhiều hơn, trong khi các khoản nợ bằng ngoại tệ khác cũng tăng lên khiến các nước này đứng trước nguy cơ khủng hoảng nợ.

Đối với giới đầu tư và các nước đang nắm giữ trái phiếu chính phủ Mỹ dài hạn, việc chính phủ Mỹ vỡ nợ sẽ khiến các trái phiếu này mất giá nghiêm trọng, kéo theo giá trị tài sản mà các bên nắm giữ thông qua trái phiếu Mỹ cũng giảm theo. Ngoài ra, số tiền phải trả cho bảo hiểm vỡ nợ trái phiếu chính phủ Mỹ dài hạn sẽ tăng mạnh.


Việc giá trị đồng bạc xanh giảm đột ngột có thể khiến các nền kinh tế đang phát triển có nợ công cao rơi vào khủng hoảng nợ (Nguồn: Reuters)

Tuy vậy, nhiều ý kiến trong giới kinh tế cũng cho rằng, mặc dù nguy cơ vỡ nợ của chính phủ Mỹ là có, nhưng khả năng này là không cao, bởi việc nâng trần nợ là một thủ tục mà Quốc hội Mỹ đã tiến hành thường xuyên. Giáo sư Juan Carluccio tại Đại học Surrey (Anh) nhận định, "việc vỡ nợ sẽ không mang lại lợi ích cho bất kỳ ai, nên nhiều khả năng phe Cộng hòa cuối cùng sẽ chấp nhận việc nâng trần nợ."

Tuy nhiên chuyên gia này cũng cảnh báo, "cuộc khủng hoảng này sẽ làm suy yếu đáng kể vị thế của Tổng thống Biden, người nhiều khả năng sẽ phải chấp nhận một số nhượng bộ đối với Đảng Cộng hòa. Điều này sẽ làm gia tăng thêm sự không chắc chắn cho tình hình kinh tế toàn cầu vốn đã nhiều bất ổn."

Theo VTV

(Nguồn: Reuters, VOX, The Guardian, Financial Times)

Link nguồn: https://vtv.vn/the-gioi/nuoc-my-va-noi-am-anh-tran-no-cong-20230509165500413.htm


Thêm nhận xét mới

 Bình luận của bạn đã được gửi thành công. Cảm ơn bạn!   Làm mới
Lỗi: Vui lòng thử lại

Thống kê trong ngày

Lượt truy cập:   4.534
Tổng số truy cập:   312.343.234

Sự kiện