Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2024
Năm 2024 là năm bứt phá để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025. Từ đầu năm đến nay, tăng trưởng kinh tế tiếp tục phục hồi, các hoạt động kinh tế xã hội diễn ra sôi động hơn. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm đạt kết quả ấn tượng. Tuy vậy, nền kinh tế tỉnh nhà vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường với nhiều khó khăn hơn; xung đột quân sự tiếp tục leo thang tại một số quốc gia, khu vực; nhiều nền kinh tế lớn phục hồi còn chậm. Thị phần bán nội địa giảm, thị trường quốc tế gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với việc tìm kiếm thị trường mới.
Trước bối cảnh đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp ngay từ đầu năm. Trong đó, đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh; chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai nhiều giải pháp phục hồi phát triển kinh tế, triển khai quy hoạch tỉnh; đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp lớn; tổ chức các hoạt động mùa du lịch, nghỉ lễ; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; chăm lo đời sống Nhân dân, an sinh xã hội; tập trung cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi phát triển.
I. LĨNH VỰC KINH TẾ
1.Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá hiện hành 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 53.379 tỷ đồng tăng 5.969 tỷ đồng; theo giá so sánh ước đạt 27.811 tỷ đồng tăng 1.963 tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước, xếp thứ 2/6 tỉnh Bắc trung bộ và xếp thứ 20/63 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá so sánh quí II năm 2024 ước tăng 6,61% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 2,78%, đóng góp 7,22 % vào mức tăng trưởng chung; khu vực Công nghiệp, xây dựng tăng 7,98%, đóng góp 45,81 %; khu vực Dịch vụ tăng 7,6% đóng góp 46,97 %; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 4,53%, đóng góp 6,65 % vào mức tăng trưởng chung.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 2024 theo giá so sánh ước tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 2,64%, đóng góp 4,8% vào mức tăng trưởng chung; khu vực Công nghiệp, xây dựng tăng 10,7%, đóng góp 56,38%; khu vực Dịch vụ tăng 6,75% đóng góp 38,83 %; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 5,06%, đóng góp 6,59% vào mức tăng trưởng chung.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, vừa bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, vừa nâng cao đời sống nhân dân. Sản xuất lúa vụ Đông Xuân năm nay thắng lợi cả về năng suất và sản lượng ở tất cả các địa phương trong tỉnh. Hoạt động chăn nuôi phục hồi, sản xuất lâm nghiệp, thủy sản vẫn tiếp tục duy trì ổn định và có mức tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. 6 tháng đầu năm 2024, ngành nông nghiệp tăng 2,29%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn tỉnh; ngành lâm nghiệp tăng 5,19% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,05 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp, xây dựng, ngành công nghiệp Hà Tĩnh đóng vai trò đầu tàu, là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng toàn ngành ước đạt 9,33%, đóng góp 2,93 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn tỉnh. Riêng ngành xây dựng tăng 15,7%, đóng góp 1,35 điểm phần trăm. Nguyên nhân hiện nay trên địa bàn tỉnh nhiều công trình, dự án lớn đang được đây nhanh tiến độ thi công.
Khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,75% so với cùng kỳ, đóng góp 3,45 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn tỉnh.
Về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2024 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 14,12%, giảm 0,75% so với cùng kỳ năm 2023; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 40,54%, tăng 1,32 % (trong đó, ngành Công nghiệp chiếm 32,26%, tăng 1,27 %; ngành xây dựng chiếm 8,28%, tăng 0,06%; khu vực Dịch vụ chiếm 35,81%; giảm 0,33 %; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,53%, giảm 0,24 % so với cùng kỳ năm trước
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi, kết quả thu hoạch vụ Đông - Xuân thắng lợi cả về năng suất và sản lượng đặc biệt là cây lúa. Các dịch bệnh đối với chăn nuôi cơ bản được kiểm soát, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện. Hoạt động lâm nghiệp trong tháng 6 năm 2024 tình hình thời tiết nắng nóng gay gắt kéo dài nên hoạt động trồng rừng đạt thấp so với mức bình quân chung các tháng, tuy nhiên tính chung 6 tháng đầu năm vẫn tăng khả quan. Hoạt động thủy sản tăng trưởng khá ổn định, hoạt động đánh bắt và nuổi trồng đều chú trọng nâng cao cả về giá trị sản lượng xũng như chất lượng thủy hải sản.
2.1. Sản xuất nông nghiệp
a. Trồng trọt
* Cây hàng năm
Kết quả sản xuất Vụ Đông Xuân 2023-2024: Toàn tỉnh gieo trồng các loại cây hàng năm sơ bộ đạt 97.389 ha, bằng 98,48% (giảm 1.503 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt sơ bộ đạt 423.439 tấn, so với thực hiện cùng kỳ năm trước bằng 102,94% (tăng 12.097 tấn). Nhìn chung, kết quả sản xuất vụ Đông Xuân năm nay đã đạt kế hoạch đề ra. Kết quả cụ thể đối với một số cây trồng chủ lực như sau:
Diện tích gieo cấy lúa toàn tỉnh sơ bộ đạt 59.317 ha, bằng 99,85% (giảm 90 ha) so với cùng kỳ năm trước; Năng suất gieo trồng lúa sơ bộ đạt 61,18 tạ/ha, bằng 102,67% (tăng 1,59 tạ/ha) năng suất lúa sơ bộ đánh giá đạt cao và khá đồng đều ở tất cả các địa phương trong tỉnh, vì vậy, sản lượng lúa sơ bộ đạt 362.923 tấn, bằng 102,51% (tăng 8.902 tấn) so với cùng kỳ năm trước;
Diện tích ngô vụ Đông Xuân 2023-2024 đạt 11.980 ha, bằng 100,39% so với cùng kỳ năm trước, năng suất gieo trồng đạt 50,52 tạ/ha, bằng 105,17% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng ngô sơ bộ đạt 60.517 tấn, bằng 105,57% so với cùng kỳ năm trước; Diện tích khoai lang đạt 2.776 ha, bằng 98,12% so với cùng kỳ năm trước, năng suất gieo trồng đạt 76,39 tạ/ha, bằng 98,2% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng khoai lang sơ bộ đạt 21.204 tấn, bằng 96,37% so với cùng kỳ năm trước;
Diện tích lạc sơ bộ đạt 6.611 ha, bằng 87,13% so với cùng kỳ năm trước, năng suất gieo trồng lạc đạt 27,61 tạ/ha, bằng 97% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng lạc sơ bộ đạt 18.256 tấn, bằng 84,51% so với cùng kỳ năm trước; Diện tích rau các loại đạt 10.862 ha, bằng 97,92% (so với cùng kỳ năm trước, năng suất gieo trồng đạt 71,36 tạ/ha, bằng 102,52% với sản lượng rau sơ bộ đạt 77.508 tấn, bằng 100,40% so với cùng kỳ năm trước...
Nhìn chung, kết quả sản xuất vụ Đông Xuân năm nay năm này dù có một số loại cây trồng giảm sản lượng do giảm diện tích gieo trồng như lạc, khoai lang, rau các loại...thì cây lúa và cây ngô có sự thắng lợi cả về năng suất và sản lượng. Đạt được kết quả đó là nhờ sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch sản xuất sát đúng với tình hình thực tiễn, cùng với đó bà con tuân thủ theo lịch thời vụ; quá trình sinh trưởng, phát triển trong điều kiện thời tiết thuận lợi, sâu bệnh, dịch hại được phòng trừ kịp thời. Bên cạnh đó, vụ Đông Xuân năm nay nhiều giống lúa mới năng suất, chất lượng được đưa vào sản xuất, cùng với hiệu quả của các cánh đồng mẫu lớn cũng đã góp phần vào nâng cao năng suất, chất lượng lúa.
Sản xuất vụ Hè Thu năm 2024: Với quan điểm chỉ đạo sản xuất vụ Hè Thu năm 2024 là huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc linh hoạt trong tổ chức chỉ đạo, né tránh thiên tai, phấn đấu sản xuất vụ Hè Thu an toàn, hiệu quả, góp phần hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2024. Căn cứ Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 05/12/2023 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về Kế hoạch sản xuất nông nghiệp năm 2024 và đề xuất của các huyện, thành phố, thị xã. Chỉ tiêu định hướng sản xuất vụ Hè Thu năm 2024 như sau: Tổng diện tích gieo trồng cây ngắn ngày 55.136 ha; sản lượng lương thực 234.499 tấn, trong đó: Lúa Hè Thu: diện tích 44.570 ha, năng suất 49,7 tạ/ha, sản lượng 22,13 vạn tấn; Đậu diện tích 2.321 ha, năng suất 10,2 tạ/ha, sản lượng 2.356 tấn; Ngô lấy hạt: diện tích 2.434 ha, năng suất 42,2 tạ/ha, sản lượng 10.266 tấn; Ngô sinh khối: diện tích 756 ha, năng suất 276,2 tấn/ha, sản lượng 20.883 tấn; Lạc: diện tích 319 ha, năng suất 22,95 tạ/ha, sản lượng 732 tấn; Khoai lang: diện tích 573 ha, năng suất 59,91 tạ/ha, sản lượng 3.432 tấn; Rau: diện tích 3.030 ha, năng suất 75,5tạ/ha, sản lượng 22.880 tấn; Vừng: diện tích 1.058 ha, năng suất 8,27 tạ/ha, sản lượng 668 tấn.
Tính đến ngày 14/6/2024, ước tính toàn tỉnh gieo cấy được 44.572 ha lúa vụ Hè Thu bằng 100,01% so với cùng kỳ năm trước, đạt 100% kế hoạch. Đối với cây trồng cạn tính đến ngày 20/6/2024: ngô lấy hạt 1.787 ha, đạt 73,42% kế hoạch; ngô sinh khối 195 ha, đạt 25,79% kế hoạch; đậu các loại 1.579 ha, đạt 68,03% kế hoạch; rau các loại 2.509 ha, đạt 82,81% kế hoạch; khoai lang 414 ha, đạt 72,25% kế hoạch; vừng 698 ha, đạt 86,39% kế hoạch; lạc 115 ha, đạt 36,05% kế hoạch.
* Cây lâu năm
Tổng diện tích hiện có cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 31.342 ha, bằng 99,41% giảm 185 ha so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: diện tích cây ăn quả ước đạt 19.206 ha, bằng 99,25%, giảm 145 ha; diện tích cây cao su ước đạt 8.439 ha, bằng 100%; diện tích chè búp ước đạt 1.225 ha, giảm 33 ha; chè hái lá ước đạt 1.744 ha, giảm 18 ha. Thời gian qua thực hiện chủ trương chuyển đổi lại cơ cấu cây trồng theo hướng hiệu quả kinh tế, xác định cây ăn quả có múi (cam, bưởi) là cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cao cho những vùng miền núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh nên người dân đầu tư phát triển ồ ạt nhưng hiện nay cho chi phí đầu tư quá lớn, giá cả phân bón, ngày công tăng mạnh, thiên tai, sâu bệnh. Trong khi đó sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ, bị tư thương ép giá, nhiều hộ dân đã dần chuyển hướng sang trồng các loại cây khác như keo, mác ca…nên diện tích cây ăn quả giảm.
Sản lượng cây ăn quả ước đạt 34.842 tấn, bằng 101,01% tăng 347 tấn so với cùng kỳ năm trước, trong đó: chuối tăng 398 tấn, mít tăng 164 tấn, dứa tăng 35 tấn, ổi tăng 29 tấn các loại cây này dễ trồng và cho thu hoạch nhanh, sản phẩm dễ tiêu thụ. Bên cạnh đó một số cây giảm như: cam giảm 126 tấn, chanh giảm 62 tấn nguyên nhân giảm do thoái hóa sớm nên sản lượng thấp thua so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng cao su ước đạt 1.514 tấn, bằng 117,27%, tăng 223 tấn so với cùng kỳ năm 2023 nguyên nhân do đến thời kỳ cao su cho thu hoạch mủ, năm nay chất lượng khá tốt, đáp ứng được yêu cầu. Sản lượng chè búp ước đạt 5.909 tấn, tăng 225 tấn; chè hái lá ước đạt 11.508 tấn, tăng 141 tấn, nhờ chú trọng áp dụng các biện pháp kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm nên cây chè đều sinh trưởng, phát triển tốt.
Tình hình sâu bệnh, thiên tai: Hiện nay các loại cây trồng vụ Hè Thu năm 2024 mới được gieo trồng, chưa xuất hiện các loại sâu bệnh gây hại. Đối với cây ăn quả thì xuất hiện nạn sâu đục thân, đục cành, diện tích nhiễm 10 ha; nhện nhỏ diện tích nhiễm 57 ha; châu chấu diện tích nhiễm 15 ha; Sâu nhớt diện tích nhiễm 15 ha; Sâu vẽ bùa diện tích nhiễm 15 ha phân bố chủ yếu tại các huyện Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê,…
b. Chăn nuôi
Hoạt động chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2024 ổn định và tiếp tục có bước phát triển hơn so với cùng kỳ năm trước. Các dịch bệnh đối với chăn nuôi cơ bản được kiểm soát, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện, tổng đàn lợn và đàn gia cầm tăng nhẹ, sản lượng xuất chuồng các loại gia súc và gia cầm đều tăng. Tuy nhiên, do chăn nuôi trâu bò không hiệu quả nên tổng đàn trâu, bò đang có xu thế giảm so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn trâu hiện có 66.850 con, bằng 99,78%; đàn bò hiện có 164.050 con, bằng 97,88%; đàn lợn hiện có 399.980 con, bằng 101,2%; đàn gia cầm hiện có 9.880 ngàn con, bằng 101,29%, trong đó đàn gà hiện có 8.434 ngàn con, bằng 101,55% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2024: thịt trâu ước đạt 1.936 tấn, bằng 100,05%, thịt bò ước đạt 5.245 tấn, bằng 99,71%, thịt lợn ước đạt 34.200 tấn, bằng 101,73%, thịt gia cầm ước đạt 14.456 tấn, bằng 102,55% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm chăn nuôi đã cung ứng các sản phẩm chăn nuôi đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm của người dân trên địa bàn, nhất là nhu cầu tăng cao trong dịp Tết. Lượng cung các sản phẩm chăn nuôi trên địa bàn tỉnh tương đối dồi dào, giá cả ổn định, không xảy ra hiện tượng khan hàng và tăng giá thực phẩm chăn nuôi. Tuy nhiên, hiện nay dịch tả lợn Châu Phi đang diễn biến phức tạp trên phạm vi cả nước, mặc dù giá lợn hơi tiếp tục tăng cao nhưng người dân vẫn còn e ngại không đầu tư tăng đàn vì sợ vẫn còn nhiều rủi ro.
Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Hiện nay trên địa bàn tỉnh xảy ra dịch Dịch tả lợn Châu Phi tại 02 xã, thị trấn (Cẩm Duệ, thị trấn Cẩm Xuyên), huyện Cẩm Xuyên làm 12 con lợn mắc bệnh, chết, tiêu huỷ với trọng lượng 872 kg.
Tính chung từ đầu năm đến nay, các loại dịch bệnh truyền nhiễm như Viêm da nổi cục trên trâu bò, dịch tả lợn Châu Phi, Dịch Lở mồm long móng gia súc phát sinh với mức độ cục bộ, nhỏ lẻ, được khoanh vùng, khống chế ở diện hẹp. Viêm da nổi cục xảy ra tại 30 hộ chăn nuôi của 06 xã, phường thuộc huyện Thạch Hà, Thị xã Hồng Lĩnh và Thành phố Hà Tĩnh, làm cho 35 con bò mắc bệnh, trong đó có 04 con bị chết, tiêu hủy, khối lượng 324 kg; Lở mồm long móng: xảy ra tại 09 hộ chăn nuôi của 02 xã, phường thuộc huyện Kỳ Anh và Thị xã Kỳ Anh, làm cho 22 con trâu bò mắc bệnh; Dịch tả lợn Châu Phi xảy ra tại huyện Cẩm Xuyên và Đức Thọ, làm cho 77 con lợn mắc bệnh, tiêu hủy với khối lượng 2.661 kg.
Công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm đợt I năm 2024 tính đến ngày 15/6/2024: Trên đàn Trâu,bò vắc xin Lở mồm long móng tiêm được 92.969 con, đạt 85,4% KH, vắc xin Tụ huyết trùng tiêm được 84.768 con, đạt 77,8% KH, vắc xin Viêm da nổi cục tiêm được 64.614 con, đạt 69,6% KH; trên đàn lợn: vắc xin Tụ huyết trùng tiêm được 165.509 con, đạt 76,3% KH và vắc xin Dịch tả lợn tiêm được 168.425 đạt 77,6% KH; trên đàn gia cầm vắc xin Cúm gia cầm tiêm được 1.033.102 con, đạt 44,9% KH.
2.2. Lâm nghiệp
Hoạt động trồng rừng 6 tháng đầu năm có sự tăng trưởng khá so với cùng kỳ. Diện tích rừng trồng mới tháng 6/2024 ước đạt 202 ha, bằng 101,51% so với cùng kỳ năm trước do tình hình thời tiết nắng nóng gay gắt kéo dài nên hoạt động trồng rừng đạt thấp so với mức bình quân chung các tháng, tuy nhiên tính chung 6 tháng đầu năm diện tích rừng trồng mới ước đạt 3.182 ha, bằng 128,77% so với cùng kỳ năm trước. Xét riêng đóng góp từng quý thì quý II mặc dù thời tiết nắng nóng hơn nhưng diện tích rừng trồng mới lại cao hơn quý I, cụ thể diện tích trồng mới quý II đạt 1.900 ha, tăng mạnh so với quý I (tăng 48,21% tương ứng tăng 618 ha) và quý II năm trước (tăng 37,48% tương ứng tăng 518 ha). Số cây lâm nghiệp trồng phân tán tháng 6 ước đạt 84 nghìn cây, bằng 95,45%, tính chung 6 tháng đầu năm 2024, số cây trồng phân tán ước đạt 1.623 nghìn cây, bằng 101,12% so với cùng kỳ, trồng chủ yếu tập trung ở quý I (1.424 nghìn cây) do yếu tố mùa vụ trùng dịp Tết trồng cây, còn ở quý II chỉ đạt 199 nghìn cây, giảm 86,03% so với quý I và giảm 2,93% so với cùng quý năm trước.
Về hoạt động khai thác rừng 6 tháng đầu năm thì sản lượng gỗ khai thác tăng mạnh, cụ thể tháng 6/2024 sản lượng gỗ khai thác ước đạt 55.611 m3 bằng 115,28% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 6 tháng sản lượng gỗ khai thác ước đạt 209.184 m3, bằng 115,96% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung sản lượng khai thác gỗ chủ yếu tập trung ở quý II do hiện nay diện tích rừng trồng đến tuổi khai thác nhiều, cùng với nhu cầu thu mua nguyên liệu của các đơn vị xuất khẩu dăm gỗ lớn nên người dân tranh thủ khai thác, chỉ tính riêng quý II sản lượng khai thác ước đạt 144.067 m3 tăng 121,24% so với quý trước và tăng 20,70% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù sản lượng khai thác gỗ đã tăng mạnh tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu của các đơn vị xuất khẩu dăm gỗ, hiện nay các đơn vị còn phải thu mua nguyên liệu ở các tỉnh lân cận.
Bên cạnh việc khai thác gỗ tăng mạnh thì sản lượng củi khai thác đang có xu hướng giảm dần do nhu cầu về tiêu dùng củi giảm cộng với việc cấm khai thác gỗ nhặt ở các rừng chưa khai thác. Sản lượng củi tháng 6 năm 2024 ước đạt 35.395 ste, bằng 95,26% (giảm 1.760 ste), tính chung 6 tháng ước đạt 135.587 ste, bằng 95,96% (giảm 5.701 ste). Xét trong từng quý thì sản lượng khai thác củi quý II dù tăng 48,02% so với quý trước nhưng so với cùng kỳ vẫn giảm 4,11%.
Công tác bảo vệ rừng và quản lý lâm sản luôn được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, nhưng tháng 6 nắng nóng khá gay gắt, vì vậy đã xảy ra 02 vụ cháy rừng với diện tích rừng bị cháy là 0,77 ha và 6 vụ phá rừng với diện tích bị phá là 3,40 ha dẫn đến tính chung 6 tháng, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 02 vụ cháy rừng (tăng 01 vụ) với diện tích rừng bị cháy là 0,77 ha (giảm 0,02 ha) và 23 vụ phá rừng (giảm 36 vụ) với diện tích rừng bị phá là 6,577 ha (giảm 10,95 ha) so với cùng kỳ năm trước.
2.3. Thủy sản
Hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản đang được các cấp, các ngành quan tâm, nhất là đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến khích ngư dân khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế kinh tế biển, phấn đấu trở thành ngành sản xuất hàng hóa chủ lực; gắn sản xuất với bảo vệ môi trường, nguồn lợi thủy sản. Tổng sản lượng thủy sản tháng 6 ước đạt 5.175 tấn, bằng 103,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác ước đạt 3.684 tấn, bằng 102,28%, sản lượng nuôi trồng ước đạt 1.491 tấn, bằng 106,81% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 27.823 tấn, bằng 102,98% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác ước đạt 21.095 tấn, bằng 102,42%, sản lượng nuôi trồng ước đạt 6.728 tấn, bằng 104,76% so với cùng kỳ năm trước.
Xét riêng từng quý thì với thủy sản nuôi trồng sản lượng quý I và II khá đồng đều, trong khi sản lượng khai thác lớn và tập trung chủ yếu vào quý II. Cụ thể, sản lượng nuôi trồng quý II ước đạt 3.416 tấn, tăng 3,14% so với quý I và tăng 6,65% so với cùng kỳ, trong khi sản lượng khai thác quý II ước đạt 11.167 tấn, tăng 12,48% so với quý trước và tăng 2,95% so với cùng kỳ. Do trong quý thời tiết tương đối thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, dịch bệnh ít xảy ra, mặt khác chi phí về nhiên liệu có phần hạ nhiệt và hoạt động du lịch sôi động trở lại khi bước vào mùa hè, nhu cầu tiêu dùng tăng cao cộng với giá cả ổn định, một số mặt hàng hải sản có phần tăng hơn so nên khuyến khích ngư dân ra khơi bám biển.
Tình hình dịch bệnh: Hiện nay, thời tiết bất lợi, nắng nóng xen lẫn mưa dông, làm biến động nhiệt độ và các yếu tố môi trường nước, giảm sức đề kháng của tôm; nguy cơ tiếp tục phát sinh, lây lan một số loại dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên tôm là rất cao. Tổng diện tích dịch bệnh trong 6 tháng đầu năm 2024 là 9,7 ha, trong đó: Dịch bệnh đốm trắng xảy ra tại 4 xã (Hộ Độ, Kỳ Ninh, Kỳ Thọ, Mai Phụ) thuộc 3 huyện, thị xã (Kỳ Anh, thị xã Kỳ Anh, Lộc Hà) với tổng diện tích 7,05 ha; Dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp tính xảy ra tại xã Nam Phúc Thăng thuộc huyện Cẩm Xuyên với diện tích 2 ha; Bệnh Vi bào tử trùng (EHP) xảy ra tại xã Kỳ Hải huyện Kỳ Anh với diện tích 0,65 ha, giảm 73% so với cùng kỳ năm trước.
3. Sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có nhiều dấu hiệu tích cực, khi có 3/4 nhóm ngành công nghiệp cấp 1 đều ghi nhận mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm 2023. Tuy nhiên, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Nửa đầu tháng 4 năm 2024, xưởng cán nóng đại tu sửa, dây chuyển sản xuất thép dừng sản xuất. Bên canh đó, trong thời gian vừa qua, sự gia tăng mạnh mẽ các sản phẩm thép nhập khẩu từ các nước như Trung Quốc, Ấn Độ đã ảnh hưởng đến việc ổn định sản xuất doanh nghiệp sản xuất thép trong nước. Thị phần bán nội địa giảm, thị trường quốc tế gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp Formosa Hà Tĩnh do đó sản lượng thép sản xuất giảm mạnh so cùng kỳ. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh ước tính 6 tháng đầu năm 2024 giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước.
3.1 Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP).
Ước tính tháng 6/2024, chỉ số sản xuất toàn ngành ước giảm 0,31% so với tháng trước và giảm 1,94% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng ước giảm 3,56% so với tháng trước và tăng 22,98% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tăng 3,72% so với tháng trước và giảm 7,6% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện dự tính giảm 14,9% so với tháng trước và tăng 28,4% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xả lý rác thải dự ước giảm 1,29% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước tăng 15,51%.
Quý II/2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính giảm 5,52% so với quý trước và giảm 10,29% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành khai khoáng tăng 79,27% so với quý trước và tăng 34,34% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 11,72% so với quý trước và giảm 19,02% so cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 16,1% so với quý trước và tăng 35,03% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nướ; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 21,84% so với quý I/2024 và tăng 14,12% so với cùng kỳ năm 2023.
Ước tính 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh giảm 3,2% so với cùng kỳ năm 2023. Cụ thể: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 25,34% đóng góp 0,32 điểm vào mức tăng chung toàn ngành; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 10,18% làm giảm 8,45 điểm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 35,63% đóng góp 4,6 điểm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 16,21% đóng góp 0,33 điểm vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp Hà Tĩnh.
Một số sản phẩm đóng góp vào tăng trưởng của ngành như điện sản xuất, bia, pack pin (điện sản xuất ước đạt 5,87 tỷ kWh, tăng 37,42%; bia ước đạt 39,46 triệu lít, tăng 26,79%; pack pin ước đạt 2.460 pack); trong khi một số sản phẩm như thép, sợi có xu hướng giảm do khó khăn về thị trường đầu ra (thép ước đạt 2,23 triệu tấn, giảm 16,76%; sợi ước đạt 3.239 tấn, giảm 0,67%). Ngoài yếu tố thị trường, sản lượng thép giảm do sự cố tại dây chuyền cán nóng của Formosa từ ngày 1/4-15/4 dẫn đến tăng trưởng ngành công nghiệp cũng như toàn nền kinh tế chưa đạt kỳ vọng.
3.2 Tình hình hoạt động một số ngành chiếm tỷ trọng lớn
Ước tính 6 tháng đầu năm 2024, trong 19 nhóm ngành công nghiệp cấp 2 có 11 nhóm ngành có chỉ số sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số nhóm ngành có mức tăng cao, đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp như: Khai thác quặng kim loại tăng 72,63%; sản xuất đồ uống tăng 42,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 38,6%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 35,63%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 20,82%; ... Một số nhóm ngành giảm làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng toàn ngành: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 7,95%; sản xuất kim loại giảm 14,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 5,79%; ....
3.3 Chỉ số tiêu thụ, tồn kho, tình hình sử dụng lao động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dự tính tháng 6/2024 giảm 3,17% so với tháng trước, so với tháng 6/2023 giảm 7,64%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024 chỉ số tiêu thụ giảm 12,32% so với năm trước. Trong đó, sản phẩm than cốc, dầu mỏ tinh chế với chỉ số tiêu thụ giảm 12,39% so với cùng kỳ năm trước. Tiêu thụ sản phẩm này giảm mạnh do doanh nghiệp giữ lại dùng để sản xuất chế biến tiếp trong doanh nghiệp. Sản phẩm kim loại giảm 15,55% so với cùng kỳ năm trước. Thép nhập khẩu từ các nước khác làm giảm thị trường tiêu thụ đã ảnh hưởng trực tiếp tới chỉ số tiêu thụ của ngành sản xuất kim loại. Còn lại, nhiều mặt hàng trong tổng số các nhóm sản phẩm trên địa bàn có chỉ số tiêu thu tăng cao so với cùng kỳ năm 2023 như: Sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 35,54%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 91,27%; sản xuất trang phục tăng 69,39%; …6 tháng đầu năm 2024, mặc dù chỉ số tiêu thụ giảm so với cùng kỳ, tuy nhiên, số nhóm sản phẩm có chỉ số tiêu thụ tăng chiếm tỷ trọng cao, cho thấy đa số các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh dần phục hồi sau nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong những năm qua.
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 6/2024 tăng 32,69% so với tháng trước và tăng 20,05% so cùng kỳ năm trước. Chỉ số tồn kho tăng cao do một số ngành như: Sản xuất trang phục tăng 289,97%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 36,01%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 10,25%.
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 6/2024 tăng 0,41% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước giảm 3,61%. Khi các dự án, nhà máy mới đi vào hoạt động sản xuất đã góp phần tăng số lượng lao động trên địa bàn so với năm trước. Cộng dồn đến cuối năm tháng 6 năm 2024, chỉ số 36 sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tăng 7,55% so với cùng kỳ. Trong đó, chỉ số sử dụng lao động tháng 6 tháng đầu năm 2024 của ngành khai khoáng tăng 0,79% so với năm trước. Hiện nay, một số doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo mở rộng quy mô sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm vì vậy nguồn nhân lực tăng so với cùng kỳ. Chỉ số sử dụng lao động 6 tháng đầu năm 2024 đối với ngành này tăng 9,65%. Chỉ số sử dụng lao động ngành sản xuất và phân phối điện tăng 0,08%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 1,11% so với cùng kỳ năm 2023.
4. Tình hình thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp
4.1 Thu hút đầu tư
Tính từ đầu năm đến nay Hà Tĩnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư 16 dự án đầu tư trong nước với tổng mức gần 1.745 tỷ đồng (cùng kỳ chấp thuận 10 dự án 1.254 tỷ đồng). Lũy kế toàn tỉnh hiện có gần 1.500 dự án quy mô 517.000 tỷ đồng (tăng 8% về số lượng, 20% về số vốn so với đầu nhiệm kỳ). Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các biên bản ghi nhớ tại Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh. Tiếp tục kết nối, làm việc với các nhà đầu tư trong nước (Central Group, FPT, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam...) và nước ngoài (Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan) nghiên cứu đầu tư các dự án phát triển hạ tầng khu/cụm công nghiệp, năng lượng, điện tử, giáo dục, du lịch.
4.2. Tình hình đăng ký kinh doanh
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp đến năm 2025 và những năm tiếp theo. Thời gian vừa qua, Hà Tĩnh tiếp tục tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Tuy nhiên do sự tác động tiêu cực từ lạm phát, suy thoái nền kinh tế thế giới, đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình trình sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt, tiêu dùng của người dân và các doanh nghiệp... Vì vậy số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới vẫn không đạt như kỳ vọng.
Cụ thể, tính đến ngày 15/6/2024 toàn tỉnh có 528 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với vốn đăng ký hơn 3.000 tỷ đồng, giảm 5,37% số lượng và tăng 47,5% số vốn; 233 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 3,56%; 107 doanh nghiệp giải thể, tăng 5,94%; 414 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 8,38%; tỷ lệ kê khai phát sinh thuế từ đầu năm đến nay chiếm 39% (cùng kỳ 41%).
4.3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Qua tổng hợp kết quả điều tra trên địa bàn tỉnh, nhìn chung đa số các doanh nghiệp đánh giá quý III/2024 và dự báo 6 tháng cuối năm 2024 về tình hình sản xuất kinh doanh, biến động về khối lượng sản xuất, số lượng đơn đặt hàng có xu hướng tăng lên và giữ nguyên. Điều này cho thấy tình hình sản xuất ngành công nghiệp đang có những chuyển biến tích cực và thuận lợi hơn trước. Cụ thể:
*Nhận định quý III so với quý II
Các doanh nghiệp dự báo xu hướng về tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2024 tăng hơn so quý II/2024 khi có tới 35,42% doanh nghiệp nhận định SXKD quý II/2024 sẽ tốt hơn và 50% giữ ổn định so với quý II/2024. Số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất vẫn tiếp tục gặp khó khăn hơn quý trước giảm xuống còn 14,58% tổng số các doanh nghiệp trong toàn tỉnh.
Quý III/2024 có 39,58% số doanh nghiệp cho rằng khối lượng sản xuất tăng so với quý hiện tại; 47,92% số doanh nghiệp nhận định giữ ổn định sản xuất. Trong khi đó chỉ có 12,5% trong tổng số doanh nghiệp giảm khối lượng sản xuất.
Các doanh nghiệp dự báo quý III/2024 tăng số lượng đơn đặt hàng mới (37,5% nhận định tăng lên và 47,92% giữ nguyên như quý II/2024); có 14,58% doanh nghiệp dự báo số lượng đơn đặt hàng mới giảm hơn so với quý II/2024.
Tỷ trọng số doanh nghiệp nhận định lượng tồn kho thành phẩm tăng lên đã tăng lên 18,75%. Trong khi có 81,25% doanh nghiệp dự báo vẫn giữ nguyên như cũ và giảm đi so với quý II/2024.
Dự báo lao động quý III/2024 so với quý hiện tại có 72,92% doanh nghiệp khẳng định giữ ổn định số lao động, bên cạnh đó có 12,5% số doanh nghiệp dự kiến tăng số lao động và 14,58% doanh nghiệp dự kiến giảm số lao động.
*Dự báo 6 tháng cuối năm 2024
Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo 6 tháng tiếp theo có xu hướng tăng lên chiếm tỷ trọng lớn (52,08% doanh nghiệp); tỷ lệ doanh nghiệp dự báo giữ nguyên là 39,59% và chỉ có 8,33% doanh nghiệp cho rằng 6 tháng tiếp theo khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo sẽ giảm đi so với hiện tại.
Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về số lượng đơn đặt hàng mới ngành chế biến chế tạo 6 tháng tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn nhất (50%). Trong khi đó dự báo xu hướng giảm đi chỉ chiếm 10,42%. Tương tự số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sẽ tăng lên và giữ nguyên trong 6 tháng tiếp theo chiếm tỷ lệ cao (75%).
Với tình hình thực tế hiện nay, các doanh nghiệp vẫn nhận định và dự báo số lượng lao động 6 tháng tiếp theo vẫn tiếp tục giữ nguyên nhằm ổn định sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lao động trong 6 tháng tiếp theo chiếm đến 66,67%, trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ tăng lao động chiếm 22,92% và có 10,41% tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng sẽ giảm số lượng lao động.
5. Thương mại, dịch vụ
Hoạt động thương mại, dịch vụ 6 tháng đầu năm 2024 diễn ra sôi động và tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 20,56%, doanh thu dịch vụ lưu trú giảm 15,92%; doanh thu dịch vụ ăn uống tăng 14,09%; doanh thu du lịch lữ hành tăng 77,21%; dịch vụ khác tăng 6,35%. Bên cạnh đó hoạt động vận tải cũng có doanh thu tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, do giá vé và nhu cầu sử dụng phương tiện giao thông công cộng đường bộ và taxi để đi lại của người dân tăng lên. Nguyên nhân chủ yếu là nhờ chính sách kích cầu của Chính phủ, thông qua đầu tư công như xây dựng cầu, đường, điện ... từ đó tạo động lực cho các nhóm, ngành phát triển, cùng với sự phát triển mạnh của ngành du lịch lữ hành, khách du lịch tăng đột biến so với cùng kỳ năm trước đã góp phần làm gia tăng giá trị và tạo đà cho các hoạt động kinh doanh ăn uống ngoài gia đình, vận tải…
5.1.Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Nguồn cung hàng hóa tại thị trường trong nước, nhất là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, nguyên nhiên liệu thiết yếu phục vụ sản xuất (xăng dầu, phân bón, thức ăn chăn nuôi…) luôn được bảo đảm, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp và đời sống của người dân. Thị trường các mặt hàng thiết yếu trong quý II và cả 6 tháng đầu năm không có biến động lớn, mặc dù chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như giá nguyên liệu trên thị trường thế giới, dịch bệnh, mùa vụ … nhưng cơ bản cung cầu các mặt hàng được bảo đảm, thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp khiến nguồn cung lương thực, thực phẩm đồi dào.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa: Doanh thu tháng 6 ước đạt 5.753,97 tỷ đồng, tăng 0,82% so với tháng trước, tăng 17,56% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 34.321,82 tỷ đồng, tăng 20,56% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó các nhóm hàng thiết yếu chiếm tỷ trọng cao trong tổng mức đạt mức tăng trưởng khá như: Lương thực, thực phẩm ước đạt 16.527,98 tỷ đồng, chiếm 48,16% tổng mức, tăng 26,85%; hàng may mặc ước đạt 2.184,52 tỷ đồng, chiếm 6,36% tổng mức, tăng 43,78%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình ước đạt 4.345,53 tỷ đồng, chiếm 12,66% tổng mức, tăng 43,46%; gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 1.495,20 tỷ đồng, chiếm 4,36% tổng mức, giảm 7,86%; phương tiện đi lại ước đạt 513,03 tỷ đồng, chiếm 1,49% tổng mức, giảm 31,42%...
Xét riêng từng quý cho thấy doanh thu bán lẻ ở mức ổn định và tăng tưởng khá đều ở các quý, mức tăng trưởng doanh thu so với cùng kỳ ở quý I và quý II lần lượt ở các mức cao là 21,98% và 19,17%. Do tính mùa vụ quý I trùng các dịp lễ, Tết nên doanh thu quý II ước đạt 17.108 tỷ đồng giảm nhẹ 0,61% so với quý I. Ngoại trừ nhóm hàng gỗ, vật liệu xây dựng và ô tô, phương tiện đi lại các loại có mức doanh thu giảm so cùng kỳ do sự giảm về giá các loại vật liệu xây dựng và nhu cầu các mặt hàng giá trị lớn do tình hình kinh tế khó khăn còn lại các mặt hàng khác đều có doanh thu tăng mạnh so với cùng kỳ ở cả 2 quý.
Nhìn chung nguồn cung hàng hóa tại thị trường trong nước, nhất là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, nguyên nhiên liệu thiết yếu phục vụ sản xuất (xăng dầu, phân bón, thức ăn chăn nuôi…) luôn được bảo đảm, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp và đời sống của người dân. Thị trường các mặt hàng thiết yếu trong quý II và 6 tháng đầu năm không có biến động lớn. Mặc dù chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như giá nguyên liệu trên thị trường thế giới, dịch bệnh, mùa vụ … nhưng cơ bản cung cầu các mặt hàng được bảo đảm; thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nên nguồn lương thực, thực phẩm khá dồi dào.
Dịch vụ l¬ưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Tháng 6 là thời điểm bắt đầu mùa nghỉ hè, nhu cầu đi tham quan nghỉ mát mùa hè, du lịch, vui chơi giải trí tăng. Cùng với đó, trong tháng có ngày lễ là ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6. Những điều này, phần nào tác động tăng doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, ước doanh thu tháng 6 đạt 742,58 tỷ đồng, tăng 7,29% so với tháng trước, tăng 7,83% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng doanh thu ước đạt 4.009,61 tỷ đồng, tăng 13,34% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lưu trú ước đạt 116,33 tỷ đồng, giảm 15,92%; Ăn uống ước đạt 3.851,32 tỷ đồng, tăng 14,09%; Du lịch lữ hành và dịch vụ hỗ trợ du lịch ước đạt 41,96 tỷ đồng, tăng 77,21% so với cùng kỳ năm trước.
Có thể thấy mùa du lịch tập trung chủ yếu ở tháng 5,6, vì vậy mức doanh thu du lịch tăng mạnh trong quý II. Doanh thu du lịch trong quý II ước đạt 25,56 tỷ đồng, chiếm 60,92% doanh thu du lịch 6 tháng đầu năm 2024, tăng 55,86% so với quý trước và tăng 70,94% so với cùng kỳ năm trước.Tuy nhiên, việc doanh thu du lịch còn khá nhỏ so với tiềm năng du lịch là bài toán cần phương án giải đáp sớm trong thời gian tới của tỉnh nhà. Hoạt động du lịch tăng mạnh cũng là động lực kéo hoạt động lưu trú, ăn uống ngoài gia đình trong quý tăng trưởng khá, doanh thu lưu trú ăn uống tính riêng quý II đạt 2.074,06 tỷ đồng, tăng 9,53% so với quý trước và tăng 7,31% so với cùng kỳ, trong đó nhu cầu ăn uống ngoài gia đình đang rất cao và xu hướng tăng lên cũng là nhóm ngành trọng yếu quyết định đến tăng trưởng của nhóm ngành này, chỉ tính trong quý II doanh thu ăn uống đạt 1.992,71 tỷ đồng, tăng 7,21% so với quý I và tăng 7,67% so với cùng quý năm trước, trong khi hoạt động lưu trú có sự sụt giảm so với cùng kỳ ở cả 2 quý do việc tạm ngừng để sửa chữa các cơ sở lưu trú do tình trạng xuống cấp.
Nhìn chung, hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh. Các đơn vị kinh doanh ngày càng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Nguyên nhân, là thời điểm mùa du lịch hà Tĩnh đặc biệt là du lịch biển với những bãi biển đẹp như Thiên Cầm, Thạch Hải, Xuân Hải, Xuân Thành…, lượng khách đến các bãi biển, khu nghỉ dưỡng bắt đầu tăng mạnh so với các tháng đầu năm. Cùng với đó là sự thuận lợi về đường giao thông, phương tiện đi lại; chất lượng của các cơ sở lưu trú ngày càng được chú trọng. Năm nay với những chương trình tour du lịch phong phú, đa dạng như du lịch văn hóa, du lịch tâm linh, du lịch biển…hoạt động lữ hành đạt được những kết quả tốt và đã có những tour du lịch nước ngoài, tour phục vụ khách quốc tế là sự tiến bộ so với năm trước.
Dịch vụ khác: Doanh thu tháng 6/2024 ước đạt 378,6 tỷ đồng, tăng 0,81% so với tháng trước và tăng 8,98% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024 doanh thu ước đạt 2.262,63 tỷ đồng, tăng 6,35% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung các hoạt động dịch vụ khác đạt doanh thu khá ổn định và tăng trưởng đều ở quý I và II, cụ thể mức tăng ở các quý so với cùng kỳ lần lượt là 6,43% và 6,28%. Nguyên nhân do trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm đang được thi công như: cao tốc Bắc Nam, Nhà máy Pin Lithium, Nhà máy nhiệt điện 2…, hoạt động xây dựng đang đẩy nhanh tiến độ thi công, san lấp mặt bằng nhiều đã thúc đẩy nhu cầu sử dụng máy móc thi công tăng lên; kéo theo đó là hoạt động vệ sinh công trình, cảnh quan đô thị cũng phát triển. Bên cạnh đó các hoạt động dịch vụ như chăm sóc da, làm đẹp, cắt tóc, gội đầu; dịch vụ dọn vệ sinh nhà cửa đã khôi phục và trở lại trạng thái hoạt động khá ổn định, chưa kể việc chi phí tăng khiến giá các mặt hàng khác tăng kéo theo doanh thu nhóm này tăng.
5.2. Hoạt động vận tải
Kết quả vận tải, kho bãi tháng 6/2024 doanh thu ước đạt 767,69 tỷ đồng, tăng 2,27% so với tháng trước, tăng 24,43% so với cùng kỳ năm trước, do trong tháng là tháng bắt đầu nghỉ hè, là thời điểm nhu cầu tham quan đi lại của đối tượng khách du lịch ngày càng cao, vận tải hàng hóa trong tháng cũng tăng mạnh do các hoạt động xây dựng đang tiếp tục phát triển, nhiều dự án mới được đưa vào triển khai thi công, công trình xây dựng cùng với đó nhu cầu vận chuyển vật tư nông nghiệp phân bón, giống để chuẩn bị cho vụ mùa tăng.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024 doanh thu vận tải, kho bãi ước đạt 4.162,97 tỷ đồng, tăng 22,79% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hành khách ước đạt 759,88 tỷ đồng, tăng 55,04%; vận tải hàng hoá ước đạt 2.520,37 tỷ đồng, tăng 14,33%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 852,41 tỷ đồng, tăng 41,44% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng trong 6 tháng của hoạt động vận tải chủ yếu tập trung ở quý II, chỉ tính riêng quý II, doanh thu vận tải ước đạt 2.240,43 tỷ đồng, tăng 16,53% so với quý trước và tăng 24,55% so với cùng quý năm trước. Mức tăng chủ yếu ở vận tải hàng hóa khi doanh thu ước đạt 1.433,65 tỷ đồng, tăng đến 31,92% so với quý trước và tăng 22,68% so với cùng quý năm trước, trong khi quý I chỉ tăng 4,91% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, doanh thu vận tải hành khách trong quý giảm 13,33% so với quý trước, do yếu tố mùa vụ khi người về quê và đi làm sau các kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, tết Dương lịch, nhưng so với cùng kỳ vận tải hành khách vẫn đạt mức tăng 41,61% do yếu tố giá vé và nhu cầu vé chất lượng cao tăng.
Nhìn chung hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm 2024 ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ so với cùng kỳ năm trước, doanh thu vận tải hành khách mặc dù đang thấp hơn vận tải hàng hóa nhưng tốc độ tăng lại rất lớn trên 55% chứng tỏ sự đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ, chất lượng phương tiện đến thái độ phục vụ. Việc mở rộng thêm nhiều tuyến sang các nước như Thái Lan, Lào làm cho khối lượng vận chuyển hành khách tăng lên đáng kể. Với sự chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt kinh tế Hà Tĩnh đang trên đà tăng trưởng, do đó phát triển hạ tầng giao thông là một trong các chỉ tiêu được đặt ra hàng đầu để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển trên mọi mặt, việc hoàn thiện, mở rộng các tuyến Quốc lộ trong tỉnh, các tuyến giao thông đường bộ nội tỉnh, thôn xóm cũng ngày càng hoàn thiện, càng giúp cho hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa thuận lợi hơn. Đó cũng chính là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của hoạt động giao thông vận tải, tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện vận tải lưu thông.
6. Tài chính, ngân hàng
6.1. Hoạt động tài chính
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 6 tháng đầu năm 2024 có nhiều thuận lợi hơn; hoạt động sản xuất của một số doanh nghiệp chủ lực tăng so với cùng kỳ, thị trường bất động sản ổn định, tăng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh. Chi ngân sách Nhà nước cơ bản đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ đầu tư phát triển, chi thường xuyên, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục hồi nền kinh tế.
Thu ngân sách nhà nước (đã loại trừ hoàn thuế) tính đến ngày 15/6/2024 đạt 7.048,80 tỷ đồng (tăng 7,03% so với cùng kỳ). Trong đó, thu nội địa đạt 4.389,01 tỷ đồng (chiếm 62,27 % trong tổng thu) tăng 6,46% so với cùng kỳ. Một số thuế thu đạt thấp như: Các khoản thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 558,54 tỷ đồng, giảm 69,03% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm do nguồn thuế thu từ doanh nghiệp Formosa giảm mạnh bởi gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm kim loại; thu từ cân đối hoạt động xuất nhâp khẩu đạt 2.233,60 tỷ đồng, giảm 7,25% so với cùng kỳ. Chủ yếu do hoạt động xuất nhập khẩu của Formosa giảm mạnh so với cùng kỳ.
Tuy nhiên, ngoài các sắc thuế có số thu đạt thấp 6 tháng đầu năm 2024 thu từ doanh nghiệp nhà nước đạt 558,54 tỷ đồng tăng 49,61% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực công, thương nghiệp ngoài quốc doanh đạt 741,39 tỷ đồng, tăng 58,48% so với cùng kỳ năm 2023; các khoản thu về thuế nhà, đất đạt 1.346,68 tỷ đồng, tăng 117,51% so với cùng kỳ năm trước; ...
Chi ngân sách nhà nước cơ bản đáp ứng các nhiệm vụ đã bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển KT-XH, QP-AN của địa phương. Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến ngày 15/6/2024 đạt 11.497,44 tỷ đồng tăng 13,9% so với cùng kỳ. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển đạt 5.482,8 tỷ đồng chiếm 47,69% tổng chi, tăng 17% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 6.012,56 tỷ đồng chiếm 52,29% tổng chi, tăng 12,22% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số khoản chi tác động lớn vào tăng trưởng kinh tế như: Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo dạy nghề đạt 2.104,59 tỷ đồng tăng 21,33%; chi quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể đạt 1.365,66 tỷ đồng tăng 23,05% so với cùng kỳ năm 2023.
6.2. Hoạt động ngân hàng
6 tháng đầu năm 2024, ngành Ngân hàng Hà Tĩnh đã thực sự nỗ lực trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trên địa bàn và góp phần phục hồi kinh tế xã hội, trong bối cảnh sức hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp. Công tác huy động vốn được các tổ chức tín dụng trên địa bàn đẩy mạnh ngay từ đầu năm. Với việc triển khai nhiều chính sách hiệu quả, nguồn vốn huy động trên địa bàn có sự tăng trưởng tốt.
Tổng nguồn vốn huy động ước đến đến 30/6/2024 đạt 104.590 tỷ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2023. Trong đó, nguồn vốn huy động trung, dài hạn đạt 10.901 tỷ đồng, chiếm 10,42% tổng nguồn vốn huy động, tăng 3,09% so với cuối năm 2023; nguồn vốn huy động ngắn hạn đạt 96.688 tỷ đồng, chiếm 89,58%, tăng 4,16% so với cuối năm 2023.
Dư nợ cho vay ước đến 30/6/2024 đạt 99.750 tỷ đồng, tăng 3,85% so với cuối năm 2023. Trong đó, dư nợ ngắn hạn đạt 73.108 tỷ đồng (chiếm 73,29 % tổng dư nợ), tăng 5,7% so với cuối năm 2023; dư nợ trung dài hạn đạt 26.641 tỷ đồng (chiếm 26,71% tổng dư nợ), giảm 0,9% so với cuối năm 2023.
Công tác huy động vốn, tín dụng được tập trung chỉ đạo. Các tổ chức tín dụng công bố lãi suất cho vay, các chương trình lãi suất ưu đãi, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp nắm bắt thông tin, tiếp cận tín dụng.
7. Vốn đầu tư
6 tháng đầu năm 2024, UBND tỉnh và các Sở, ban ngành đã có nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư, xử lý kịp thời các vướng mắc trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, đồng thời tăng cường vai trò của Chủ đầu tư trong việc đôn đốc nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công, nghiệm thu khối lượng hoàn thành và giải ngân vốn kịp thời.
Hà Tĩnh tiếp tục triển khai có chiều sâu các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh quý II/2024 ước đạt 14.213,01 tỷ đồng, tăng 31,14% so với quý trước và tăng 15,53% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024 tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội ước đạt 25.051,41 tỷ đồng, tăng 15,94% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 7.586,76 tỷ đồng, tăng 79,12% nhờ các dự án trọng điểm Trung ương triển khai trên địa bàn như cao tốc Bắc – Nam, đường dây 500kV; vốn đầu tư ngoài nhà nước ước đạt 7.766,56 tỷ đồng, giảm 16,19% do hoạt động đầu tư từ khu vực doanh nghiệp còn khó khăn; vốn đầu tư thực hiện khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 9.896,1 tỷ đồng, tăng 19,65% nhờ một số dự án lớn như nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II, Nhà máy Pin Lithium.
Một số dự án quy mô lớn được chấp thuận trong năm 2024 như: Dự án đường dây 500KV Vũng Áng - rẽ Hà Tĩnh - Đà Nẵng (mạch 3,4) (Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia) với quy mô diện tích hơn 61ha, tổng vốn đăng ký hơn 673 tỷ đồng; Khu dân cư tại xã Phú Phong (huyện Hương Khê) với quy mô diện tích 9,83 ha, tổng vốn đăng ký hơn 154 tỷ đồng; Nhà máy Sản xuất ván ép xuất khẩu (huyện Nghi Xuân) của Công ty TNHH SX&TM Wintech với quy mô diện tích 4,32ha, tổng vốn đăng ký hơn 125 tỷ đồng.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh, nhiều dự án lớn từ các năm trước đang tiếp tục được tỉnh đôn đốc triển khai thực hiện như: Dự án nhà máy sản xuất Lithium (6.500 tỷ đồng); nhà máy luyện gang thép do Công ty cổ phần gang thép Vũng Áng đầu tư bước đầu chuẩn bị mặt bằng, tổng mức dự án là 2.200 tỷ đồng, dự kiến đi vào hoạt động đầu năm 2025; dự án xây dựng Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 2; dự án xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam qua Hà Tĩnh; dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp Bắc Thạch Hà đã triển khai giai đoạn 1 với tổng mức đầu tư 1.555 tỷ đồng. Đến thời điểm hiện tại, dự án đã bước đầu hoàn thành công tác kiểm đếm, đền bù cho hộ dân cư, dự kiến khởi công vào cuối tháng 6 năm 2024.…Đây là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong thời gian tới.
8. Xuất nhập khẩu hàng hóa
Sau một năm 2023 với những tín hiệu tích cực từ hoạt động xuất khẩu thì 6 tháng năm 2024 lượng hàng xuất khẩu của Hà Tĩnh giảm xuống khá sâu so với cùng kỳ năm trước, do diễn biến giá khó lường cũng nhu cầu tiêu thụ thế giới phục hồi chậm hơn so với kỳ vọng. Riêng tháng 6/2024 tổng kim ngạch đạt 469,06 triệu USD, giảm 4,93% so với tháng trước và giảm 24,76% so với cùng kỳ, tính chung 6 tháng đầu năm 2024 tổng kim ngạch ước đạt 3.140,91 triệu USD, giảm 0,22% so với cùng kỳ năm 2023.
Kim ngạch xuất khẩu: Tháng 6 ước đạt 170,50 triệu USD, giảm 7,53% so với tháng trước và giảm đến 44,75% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do mặt hàng chủ đạo thép, phôi thép xuất khẩu đạt 150,50 triệu USD, giảm 7,66% so với tháng trước và giảm đến 47,49% so với cùng kỳ, bên cạnh đó các mặt hàng dệt, may mặc và xơ, sợi các loại vẫn đang gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Mặc dù nhóm hàng chè và dăm gỗ có kim ngạch xuất khẩu tăng so với tháng trước (tăng lần lượt 13,64% và 1,87%), tuy nhiên vẫn chưa đạt mức so với cùng kỳ và doanh thu xuất khẩu các mặt hàng không lớn nên hầu như không tác động tới tốc độ tăng xuất khẩu.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.139,49 triệu USD, giảm 15,42% so với cùng kỳ. Bên cạnh mặt hàng thép, và phôi thép đạt 1.017,18 triệu USD (chiếm 89,27% kim ngạch xuất khẩu 6 tháng), giảm đến 18,59% so với cùng kỳ, thì mặt hàng xơ, sợi dệt các loại tiếp tục gặp khó khăn khi giảm đến 36,71%. Việc 2 nhóm hàng lớn có kim ngạch giảm sâu nên mặc dù các mặt hàng khác như Chè, Dăm gỗ, Dệt và may mặc có sự tăng trưởng tốt trong 6 tháng nhưng vì giá trị xuất khẩu không qua lớn nên không kéo lại được sự tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu. Chỉ tính riêng xuất khẩu của công ty Formosa trong 6 tháng đầu năm 2024 kim ngạch ước đạt 1.056,95 triệu USD (chiếm đến 92,76% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh), giảm 17,40% so với cùng kỳ cho thấy sự đóng góp cũng như sự quyết định công ty này đối với hoạt động xuất, nhập khẩu của tỉnh nhà.
Kim ngạch nhập khẩu: Tháng 6/2024 ước đạt 298,56 triệu USD, giảm 3,38% so với tháng trước và giảm 5,16% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do Formosa giảm nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất (Nhập khẩu từ FHS ước đạt 202,45 triệu USD, giảm 6,95% so với tháng trước và giảm 17,15% so với cùng kỳ năm trước) do việc thị trường đầu ra đang gặp khó khăn cùng với việc thời tiết chuyển nắng nóng, sản lượng sản xuất giảm.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 2.001,42 triệu USD tăng 11,14% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất Formosa đạt 1.436,0 triệu USD (chiếm 71,75%) giảm 2,74% so với cùng kỳ năm trước, nhưng việc nhập khẩu các mặt hàng khác tăng, nhất là các hàng hóa phục vụ dịp Tết trong quý I khiến kim ngạch nhập khẩu trong 6 tháng vẫn có mức tăng khá.
Năm 2024, tỉnh Hà Tĩnh đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 2,4 tỷ USD, kết quả 6 tháng đầu năm 2024 mới chỉ đạt gần 47,48%. Xét riêng từng quý thì hoạt động Xuất - Nhập khẩu chủ yếu ở trong quý I, sang quý II hoạt động có vẻ trầm lắng và giảm khá sâu, vì vậy để tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng hoạt động xuất khẩu, Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành Nghị quyết một số chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ logistics và xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2024 - 2025. Với nhiều chính sách hấp dẫn như: hỗ trợ phương tiện vận tải biển bằng container qua cảng Vũng Áng; hỗ trợ kinh phí tham gia hội chợ, các đoàn xúc tiến thương mại, khảo sát tìm hiểu thị trường xuất khẩu; hỗ trợ xây dựng gian hàng hóa để quảng bá, xuất khẩu trên sàn thương mại điện tử. Kỳ vọng những tín hiệu tích cực trong năm 2024 đối với hoạt động này.
9. Giá cả, lạm phát
Sáu tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có nhiều yếu tố bất lợi, ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và tiêu dùng hàng hoá. Mặc dù mức tăng chung chỉ số giá tiêu dùng hàng hoá ở mức 2,73% nhưng chỉ số giá lại tăng mạnh chủ yếu ở các nhóm mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, đồ uống, thước và dịch vụ y tế…Giá vàng và ngoại tệ biến động mạnh, tác động đến chính sách tiền tệ và sự ổn định của dòng vốn lưu thông trong sản xuất kinh doanh.
Tháng 6 năm 2024, chỉ số CPI chung tăng 0,18% so với tháng trước và tăng 3,31% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tác động đến giá cả trong tháng do yếu tố mùa vụ chịu ảnh hưởng bởi thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng, tác động đến nhu cầu thực phẩm, nước giải khát, hàng dệt may, hàng điện máy đồ dùng tăng mạnh, cũng là thời điểm nhóm học sinh, sinh viên bắt đầu nghỉ hè, ảnh hưởng đến các nhóm văn phòng phẩm, dịch vụ du lịch, các hoạt động vui chơi giải trí liên quan. Giá nhiên liệu xăng dầu bình quân trong tháng qua các kỳ điều chỉnh tiếp tục giảm so tháng trước và thời điểm đầu năm, ảnh hưởng đến chỉ số nhóm giao thông và chi phí trung gian các nhóm hàng hóa khác, tác động vào giá bán lẻ chung trên thị trường. Bên cạnh đó, giá gạo và thịt gia súc các loại trên thị trường trong nước vẫn đang ở mức cao và vẫn đang có xu hướng tăng.
Giá vàng bình quân trong tháng 6 có sự hạ nhiệt hơn so với tháng trước nhưng vẫn đang ở mức giá 7.487 nghìn đồng/chỉ 9999, giảm 1,07% so với tháng trước, tăng 33,45% so với cùng tháng năm trước. Giá đô la Mỹ bình quân 2.547.491 đồng/100 USD, giảm 0,68% so với tháng trước và tăng 8,47% so với cùng tháng năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 2,73% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị tăng 2,39%, nông thôn tăng 2,88%. Phân theo nhóm ngành hàng, ngoài 2 nhóm ngành hàng có chỉ số giá giảm là Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 3,3% và Bưu chính viễn thông giảm 1,76% thì các nhóm hàng khác đều có mức tăng cao, cụ thể: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,70%; đồ uống và thuốc lá tăng 5,09%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 2,26%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,77%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,47%; giao thông tăng 1,79%; giáo dục tăng 2,56%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 2,83%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,47% so với cùng kỳ năm trước.
Nếu xét riêng từng quý thì giá các mặt hàng trong quý II tăng cao hơn trong quý I. Chỉ số giá bình quân quý II tăng 0,67% so với quý trước và tăng đến 3,15% so với cùng quý năm trước. Đáng lưu ý các nhóm hàng tăng mạnh trong quý II ảnh hưởng trược tiếp tới mức giá bình quân 6 tháng như Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,83% (trong đó: lương thực tăng 15,87%; thực phẩm tăng 5,15%; ăn uống ngoài gia đình tăng 8,34%); Đồ uống và thuốc lá tăng 5,94%; Thuóc và dịch vụ y tế tăng 7,49%... Nguyên nhân do giá gạo đang ở mức cao và tăng do ảnh hưởng bởi giá gạo trên thị trường thế giới tăng trở lại, giá các loại thịt gia súc, gia cầm ở mức cao do nguồn cung trên thị trường khan hiếm, trong khi đó, nhập khẩu thịt lợn trong những tháng vừa qua đã giảm do tình hình dịch bệnh trên đàn lợn, các loại rau quả cũng ở mức giá cao do năm nay sản lượng thấp, nguồn cung hạn chế. Quý II cũng là mùa nắng nóng khiến nhu cầu tiêu thụ cũng như giá các mặt hàng nước giải khát tăng mạnh, giá dịch vụ y tế được điều chỉnh tăng theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế từ ngày 17/11/2023 nên mức giá tăng cao so với cùng kỳ.
Nhìn chung, thị trường tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh từ đầu năm đến nay các mặt hàng, dịch vụ có mức biến động mạnh chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, xăng dầu, vật liệu xây dựng, điện nước. Yếu tố mùa vụ, dịch bệnh trên đàn gia súc, thời tiết cũng như các chính sách điều hành của Nhà nước về giá cả dịch vụ, nhiên liệu là những yếu cơ bản ảnh hưởng lớn đến sự biến động giá cả hàng hoá dịch vụ trong thời gian qua.
Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trong tháng 7/2024 dự kiến tiếp tục tăng. Giá các mặt hàng và dịch vụ liên quan đến hoạt động lưu trú, lữ hành, ăn uống ngoài gia đình tiếp tục tăng do tính chất thời vụ mùa du lịch biển. Giá điện và nước sinh hoạt có thể tăng mạnh trong bối cảnh thời tiết nắng nóng kéo dài. Một số mặt hàng khác dự kiến có thể tiếp tục tăng giá gồm hàng điện lạnh, xăng dầu các loại.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm
1.1. Tình hình chung
Những tháng đầu năm 2024, nhu cầu tuyển dụng lao động tại Hà Tĩnh cao, nhiều doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lớn với mức lương, thưởng, chế độ phúc lợi hấp dẫn, song các doanh nghiệp vẫn gặp khó trong tuyển dụng lao động. Thời gian tới cần tập trung tăng cường tổ chức các phiên, sàn giao dịch việc làm trực tiếp, trực tuyến kết nối cung-cầu lao động; gửi thông tin nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp đến các địa phương để thông tin rộng rãi tới người dân. Đồng thời, tiếp tục khảo sát, thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu của người lao động có nhu cầu việc làm để kết nối với doanh nghiệp đang có nhu cầu tuyển dụng lao động; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong tuyển dụng lao động phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Tĩnh, từ đầu năm 2024 đến nay, nhu cầu tuyển dụng lao động của nhiều doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực may mặc trên địa bàn tỉnh khá lớn. Chỉ riêng trong tháng 6/2024, có 7 doanh nghiệp lĩnh vực may mặc đăng ký nhu cầu tuyển dụng hơn 3.600 lao động phổ thông trong tỉnh. Tuy nhiên, dù đã đưa ra mức lương và các chế độ đãi ngộ hấp dẫn, song nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó trong tuyển dụng lao động, số lượng lao động đến nộp hồ sơ, đăng ký tuyển dụng vẫn còn ít dẫn đến tình hình lao động việc làm tại Hà Tĩnh quý II/2024 có chiều hướng giảm so với quý trước.
Số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động quý II năm 2024 là 6.089 người, tăng 18,72% so với quý trước và 16,31% so cùng kỳ năm 2023; tăng chủ yếu do xuất khẩu lao động (tăng 150,8% so với quý trước và 226,51% so với cùng kỳ năm trước). Tính chung 6 tháng năm 2024, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động là 11.218 người, giảm 12,11% so cùng kỳ năm 2023, chủ yếu giảm ở lĩnh vực giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh (giảm 34,49%) và đi làm việc ngoại tỉnh (giảm 11,84%). Tất cả điều đó chứng tỏ tình hình về lao động, việc làm quý II/2024 ở Hà Tĩnh có xu hướng giảm so với quý trước.
1.2. Lực lượng lao động
Theo kết quả điều tra lao động việc làm, ước tính quý II năm 2024 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Hà Tĩnh là 503.482 người, giảm 0,24% so với quý trước và tăng 1,91% so với cùng kỳ năm 2023. Trong tổng số, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên là nam giới chiếm tỷ trọng 50,69%, cao hơn 1,38 điểm phần trăm so với nữ giới (chiếm 49,31%); khu vực thành thị chỉ chiếm 25,96%, chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn chiếm đến 74,04%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số từ 15 tuổi trở lên trong quý II năm 2024 là 52,74%, giảm 0,13 điểm phần trăm so với quý I/2024 và tăng 0,85 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2023. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cũng có sự chênh lệch giữa nam và nữ (lần lượt là 54,27% và 51,26%); tỷ lệ này cũng không đồng đều giữa các vùng, ở thành thị là 61,37%, cao hơn nông thôn là 11,11 điểm phần trăm.
Tính chung 6 tháng năm 2024, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính là 504.807 người, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó lực lượng lao động nam là 255.654 người, chiếm 50,72% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 130.960 người, chiếm 25,98%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 6 tháng năm 2024 là 52,8%, giảm 0,35 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2023. So sánh giữa thành thị và nông thôn, giữa nam và nữ cho thấy cũng có sự chênh lệch đáng kể: tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam cao hơn 3,07 điểm phần trăm so với nữ; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị cao hơn 11,17 điểm phần trăm so với nông thôn.
1.3. Lao động có việc làm
Theo kết điều tra lao động việc làm, tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm ở Hà Tĩnh ước tính quý II năm 2024 là 494.035 người, chiếm 98,12% trong tổng số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; giảm 0,39% so với quý trước và tăng 2,89% so với cùng kỳ năm 2023. Trong tổng số, lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 129.585 người, chiếm 26,23% trong tổng số; lao động có việc làm ở nam giới là 246.540 người, chiếm 49,9%. So sánh với cùng kỳ năm trước ta thấy, số lao động có việc làm ở thành thị, nông thôn, nam và nữ đều có xu hướng giảm, nhưng với mức giảm khác nhau: số lao động có việc làm ở nông thôn giảm 0,31%, còn ở thành thị giảm 0,62%; ở nam giới giảm 0,33%, thấp hơn nữ giới 0,12 điểm phần trăm.
Tính chung 6 tháng năm 2024, lao động có việc làm đạt 495.005 người, chiếm 98,2% tổng số lực lượng lao động và tăng 1,74% so với cùng kỳ năm 2023. Trong tổng số, lao động có việc làm ở thành thị là 129.991 người, chiếm 26,26%; ở nam giới là 246.954 người, chiếm 49,89%. Khi phân lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc theo ngành kinh tế ta thấy cơ cấu lao động chuyển dần theo chiều hướng tích cực: Quý II/2024, lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng là 29,25% (tương ứng 144.497 người), giảm 0,21 điểm phần trăm so với quý trước; công nghiệp - xây dựng chiếm 29,48% (tương ứng 145.646 người), tăng 0,3 điểm phần trăm; dịch vụ chiếm 41,27% (tương ứng 203.892 người), giảm 0,09 điểm phần trăm.
Lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản 6 tháng năm 2024 chiếm tỷ trọng 29,36% (tương ứng 145.314 người), giảm cả về số lượng và tỷ trọng so với cùng kỳ năm trước (lần lượt giảm 0,5% và 0,65 điểm phần trăm); công nghiệp-xây dựng chiếm 29,33% (tương ứng 145.180 người), tăng cả số lượng và tỷ trọng (lần lượt tăng 2,71% và 0,28 điểm phần trăm); dịch vụ chiếm 41,31% (tương ứng 204.511 người), cũng tăng cả số lượng (tăng 2,68%) và tỷ trọng (tăng 0,37 điểm phần trăm).
1.4. Tỷ lệ thiếu việc làm
Ước tính quý II/2024 tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở Hà Tĩnh là 2,47%, tăng 0,07 điểm phần trăm so với quý trước và 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 2,44%, tăng 0,03 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
1.5. Tình hình thất nghiệp
Theo kết quả điều tra lao động việc làm, quý II/2024 dân số lao động không có việc làm (thất nghiệp) là 9.447 người, chiếm 1,88% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên, tăng 0,15 điểm phần trăm so quý trước và giảm 0,93 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; có đến 87,95% lao động thất nghiệp cư trú ở nông thôn (tương đương 8.309 người) và chủ yếu là nam giới (8.683 người). Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp quý II/2024 ước tính là 5,28%, giảm 0,02 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,25 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng năm 2024, số người không có việc làm (thất nghiệp) ước tính là 9.082 người, chiếm 1,8% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và giảm 2,06 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; lao động thất nghiệp chủ yếu là ở khu vực nông thôn chiếm đến 89,33% (tương đương 8.113 người) và ở nam giới (8.700 người). Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp 6 tháng năm 2024 ước tính là 5,29%, giảm 0,22 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình nhận trợ cấp thất nghiệp: Đã giải quyết kịp thời chính sách bảo hiểm thất nghiệp, đẩy mạnh tư vấn, giới thiệu việc làm góp phần tích cực hỗ trợ người lao động trong thời gian mất việc, giúp họ ổn định cuộc sống. Số người được hưởng trợ cấp thất nghiệp phát sinh mới trong quý II/2024 là 1.705 người; tính đến tháng 6 năm 2024 là 3.117 người.
2. Đời sống dân cư và đảm bảo an sinh xã hội
Tình hình đời sống các tầng lớp dân cư quý II và 6 tháng năm 2024 nhìn chung ổn định, có phần khởi sắc hơn. Một trong những yếu tố được quan tâm nhất hiện nay là cải cách tiền lương của Chính phủ kể từ ngày 1/7/2024, hứa hẹn sự cải thiện về thu nhập và đời sống đối với các cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. Chính sách tiền lương chưa được ban hành nhưng giá cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống đã tăng phần nào đã làm ảnh hưởng đến tâm lý và đời sống của người dân. Tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh không xảy ra thiên tai. Các dịch bệnh đối với chăn nuôi cơ bản được kiểm soát, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện. Hà Tĩnh tiếp tục triển khai các chương trình, đề án giảm nghèo với mục tiêu là giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người dân đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, an ninh lương thực, an toàn nhà ở, nước sạch sinh hoạt và vệ sinh. Tăng cường kết nối về hạ tầng, đào tạo nghề và hỗ trợ giải quyết việc làm, đời sống nhân dân ổn định, toàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói trong dân cư.
2.1. Công tác đảm bảo an sinh xã hội
Công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh được triển khai kịp thời; các cấp, các ngành đã làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà gia đình người có công với các mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được quan tâm chu đáo, cụ thể:
- Hỗ trợ cho người có công và thân nhân của người có công với cách mạng: Sáu tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh chi trả trợ cấp hàng và hỗ trợ đột xuất cho đối tượng người có công với tổng số tiền là 601,44 tỷ đồng. Trong đó, dịp tết Nguyên đán đã trao tặng 102.402 suất quà trị giá 30,549 tỷ đồng; Hỗ trợ chi phí học đại học cho 29 bạn là con của người có công với số tiền là 199,05 triệu đồng.
- Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội quy định tại các chương 2, 3, 4 và 5 của Nghị định 20/2021/NĐ-CP: Sáu tháng đầu năm 2024, Hà Tĩnh đã chi trả trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội quy định tại các chương 2, 3, 4 và 5 của Nghị định 20/2021/NĐ-CP với tổng số tiền là 246,66 tỷ đồng. Trong đó, dịp tết Nguyên đán đã trao tặng khoảng 80.791 suất quà, trị giá 31,796 tỷ đồng; tài trợ 224,9 triệu đồng để thực hiện tháng hành động vì trẻ em và tổ chức ngày quốc tế Thiếu nhi.
- Hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội không trùng với các đối tượng tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP: Sáu tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh đã chi trả trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ đột xuất cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng khác với tổng số tiền là 50,62 tỷ đồng. Trong đó, dịp tết Nguyên đán trao tặng khoảng 79.740 suất quà, trị giá 43,654 tỷ đồng và 6 tháng đầu năm tỉnh Hà Tĩnh đã hỗ trợ 3,957 tỷ đồng tiền điện cho 11.572 hộ nghèo (57 nghìn đồng/hộ/tháng); hỗ trợ 23 mô hình sinh kế giảm nghèo (bò sinh kế), trị giá 270 triệu đồng.
- Tình hình cấp phát miễn phí thẻ bảo hiểm y tế tại địa phương: nêu rõ số lượng thẻ tương ứng với từng nhóm đối tượng thụ hưởng: Sáu tháng đầu năm 2024, Hà Tĩnh đã cấp phát miễn phí khoảng 404.277 thẻ bảo hiểm y tế khám chữa bệnh miễn phí. Trong đó, cấp 13.808 thẻ bảo hiểm cho hộ nghèo; 28.409 thẻ cho hộ cận nghèo; 144.064 thẻ cho trẻ em dưới 6 tuổi; 43.517 thẻ cho người có công và 174.479 thẻ cho các đối tượng khác.
- Tình hình hỗ trợ gạo tại địa phương: Sáu tháng đầu năm 2024, tỉnh Hà Tĩnh đã hỗ trợ 189 triệu đồng mua 10,52 tấn gạo cho các hộ dân tộc Chứt thuộc huyện Hương Khê và các hộ nghèo, hộ cận nghèo huyện Cẩm Xuyên.
- Hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường, nổi bật khác phát sinh tại địa phương: Sáu tháng đầu năm 2024, chính quyền địa phương cùng các mạnh thường quân đã chung tay hỗ trợ 267,4 triệu đồng cho một số cá nhân, cụ thể: 1 công ty tư nhân và các mạnh thường quân đã hỗ trợ 250 triệu đồng cho 3 nạn nhân tử vong do lán trại bị đất đá vùi lấp do sạt lở tại Thị xã Kỳ Anh; hỗ trợ 5 triệu cho 1 gia đình cháy xưởng gỗ và tổ chức nấu 620 suất cháo miễn phí cho các bệnh nhân tại trung tâm y tế với số tiền là 12,4 triệu đồng tại huyện Can Lộc.
3. Giáo dục đào tạo.
Ngày 28/5/2024, Bộ GD&ĐT ban hành Quyết định số 1503/QĐ-BGDĐT về việc công nhận tỉnh Hà Tĩnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Cũng trong thời gian này, vào ngày 6-7/6, gần 19.000 thí sinh tại 36 điểm thi, đã hoàn thành Kỳ thi vào lớp 10 THPT và THPT chuyên ở Hà Tĩnh. Ngoài ra, Hà Tĩnh cũng đã chuẩn bị tốt cho kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024, kỳ thi này có 17.083 thí sinh đăng kí dự thi; trong đó, có 16.511 thí sinh đang học lớp 12 và 572 thí sinh tự do; kỳ thi sẽ diễn ra từ ngày 27-28/6.
4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm.
Trong tháng xuất hiện nhiều đợt nắng nóng gay gắt trên diện rộng đầu tiên trong năm đã ảnh hưởng khá nhiều đến đời sống, sức khỏe của người dân, đặc biệt là với người già và trẻ nhỏ. Đây cũng là điều kiện để các loại vi khuẩn, nấm mốc, nên cơ quan chức năng khuyến cáo người dân dân nên có kế hoạch sinh hoạt, làm việc hợp lý; áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khỏe để đề phòng sốc nhiệt. Chủ động lựa chọn, sử dụng, bảo quản thực phẩm đúng cách, tránh nguy cơ gây ra tình trạng ngộ độc thực phẩm.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Để hạn chế nhiễm HIV/AIDS, cần tiếp tục tăng cường các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV, xét nghiệm phát hiện và điều trị sớm HIV/AIDS, cung cấp các dịch vụ toàn diện về phòng, chống HIV/AIDS cho người dân đặc biệt cho những người dễ tổn thương, người có hành vi nguy cơ cao. Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; tăng cường sự hỗ trợ của gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và trách nhiệm của người nhiễm HIVAIDS với gia đình, xã hội; tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
Quý II/2024, toàn tỉnh phát hiện 12 người nhiễm mới HIV, 10 người chuyển thành AIDS và có 1 người chết vì AIDS; so với quý trước: số ca nhiểm mới không thay đổi, tăng 2 người chuyển thành AIDS, giảm 2 người chết vì AIDS; so với cùng kỳ năm trước: giảm 4 người nhiễm mới HIV, giảm 3 người chuyển thành AIDS, số người chết vì AIDS không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung quý 6 tháng năm 2024, có 24 người nhiễm mới HIV, 18 người chuyển thành AIDS và 4 người chết vì AIDS; giảm 8 người nhiễm mới HIV, giảm 7 người chuyển thành AIDS và tăng 1 người chết vì AIDS so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình dịch bệnh khác: Quý II/2024, trên địa bàn không xẩy ra dịch nhưng có phát sinh một số ca bệnh đơn lẻ, cụ thể: 2 ca sốt xuất huyết, 4 ca sốt rét, 5 ca quai bị, 8 ca lỵ trực trùng, 16 ca mắc lỵ a míp, 129 ca thủy đậu, 3.907 ca mắc bệnh cúm, 9 ca tay chân miệng, 415 ca tiêu chảy, 8 ca viêm gan vi rút khác; không có người chết do các bệnh trên.
Tính chung 6 tháng năm 2024, trên địa bàn mắc một số ca bệnh đơn lẻ, không tạo thành dịch, cụ thể: 7 ca sốt xuất huyết (giảm 19 ca so với cùng kỳ năm trước), 8 ca sốt rét (tăng 5 ca), 53 ca quai bị (giảm 48 ca), 15 ca lỵ trực trùng (giảm 151 ca), 48 ca lỵ a míp (giảm 109 ca), 234 ca thủy đậu (tăng 84 ca), 9 ca tay chân miệng (giảm 115 ca), 8.316 ca bệnh cúm (tăng 1.064 ca), 803 ca tiêu chảy (giảm 536 ca), 23 ca viêm gan vi rút khác (giảm 24 ca); không có người chết do các bệnh trên.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP), địa phương đã triển khai đồng bộ các biện pháp bảo đảm ATVSTP cho người tiêu dùng.
Quý II/2024, không có vụ ngộ độc tập thể nào xảy ra, chỉ có 248 ca ngộ độc đơn lẻ và không có người chết vì ngộ độc; so với quý trước trước: tăng 78 ca ngộc độc đơn lẻ, số vụ ngộ độc và số người chết không thay đổi; so với cùng kỳ năm trước: tăng 7 ca ngộ độc đơn lẻ (giảm 2,9%), số người chết các ca đơn lẻ không thay đổi; giảm 1 vụ ngộc độc tập thể, người chết vì các vụ ngộ độc tập thể không thay đổi.
Tính chung 6 tháng năm 2024, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra 1 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 2 người bị ngộ độc và 418 người bị ngộ độc đơn lẻ (số vụ ngộ độc tập thể không thay đổi nhưng giảm 5 người bị ngộ độc; Giảm 22 ca ngộ độc đơn lẻ và số người chết không thay đổi so với cùng kỳ năm trước);
5. Hoạt động văn hóa - thể thao
Hoạt động văn hóa: Tiếp tục chỉ đạo các địa phương trên toàn tỉnh triển khai công tác tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú, góp phần tuyên truyền các sự kiện chính trị, văn hóa, các ngày lễ kỷ niệm của quê hương, đất nước.
Về thể dục thể thao: 6 tháng năm 2024, đoàn thể thao Hà Tĩnh đã tham gia 23 giải thi đấu thành tích cao và giành được 97 huy chương các loại (46 HCV - 21 HCB - 30 HVĐ)
6. Tai nạn giao thông
Nhằm đảm bảo an toàn giao thông, ngăn ngừa các vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, Công an tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông, Công an các huyện, thành phố, thị xã và các đơn vị liên quan tăng cường lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các vi phạm về trật tự ATGT. Đồng thời xem xét trách nhiệm liên đới của chủ phương tiện, doanh nghiệp vận tải khi để xảy ra sai phạm.
Quý II/2024 (từ 15/4/2024 - 14/6/2024), trên địa bàn tỉnh xảy ra 112 vụ tai nạn đường bộ, làm 57 người chết, 65 người bị thương (giảm 6 vụ, tăng 4 người chết, giảm 29 người bị thương so với quý trước; Công an tỉnh điều chỉnh tăng 1 vụ, tăng 4 người chết và giảm 3 người bị thương ở quý trước). Trong quý II không xảy ra vụ tai nạn đường sắt nào (giảm 3 vụ, giảm 1 người chết, giảm 1 người bị thương so với quý trước). Giá trị thiệt hại ước tính khoản 765 triệu đồng.
Tính chung 6 tháng năm 2024, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra 230 vụ tai nạn đường bộ, làm 110 người chết, 159 người bị thương (tăng 66 vụ, tăng 16 người chết, tăng 60 người bị thương so với cùng kỳ năm trước); 3 vụ tai nạn đường sắt, làm chết 1 người, 1 người bị thương (tăng 3 vụ, tăng 1 người chết, tăng 1 người bị thương so với cùng kỳ năm trước). Giá trị thiệt hại ước tính khoản 1.505 triệu đồng.
7. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Tình hình cháy: Trong quý II/2024, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra 19 vụ cháy, không làm thiệt hại về người. Giá trị thiệt hại ước tính 196,2 triệu đồng (tăng 2 vụ, không làm thiệt hài về người như với quý trước).
Tính chung 6 tháng năm 2024, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã xảy ra 36 vụ cháy, giá trị thiệt hại ước tính 410,2 triệu đồng (giảm 14 vụ, không làm thiệt hại về người như cùng kỳ năm trước). 6 tháng năm 2024 trên địa bàn không xảy ra vụ nổ nào.
Tình hình nổ: Quý II và 6 tháng năm 2024 không xẩy ra tình hình nổ (so cùng kỳ không thay đổi).
Công tác bảo vệ môi trường: Trong thời gian qua, cấp ủy, chính quyền tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo các địa phương đấy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân trong việc phát triển kinh tế phải gắn với công tác bảo vệ môi trường, nên người dân ngày càng ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với hoạt động bảo vệ môi trường, do đó tình hình vi phạm môi trường chiều hướng giảm so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng, Hà Tĩnh phát hiện 18 vụ vi phạm môi trường và đã xử lý 12 vụ, với tổng số tiền xử phạt 21,55 triệu đồng; tăng 11 vụ phát hiện (tăng 157,14%), tăng 3 vụ đã xử lý (tăng 33,33%), giảm 340,40 triệu đồng (giảm 94,05%) số tiền xử phạt so với tháng trước; và giảm 10 vụ phát hiện (giảm 35,71 %), giảm 9 vụ đã xử lý (giảm 42,86%), giảm 26,50 triệu đồng (giảm 55,15%) số tiền xử phạt so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng năm 2024, phát hiện 188 vụ vi phạm môi trường, giảm 126 vụ (giảm 40,13%); đã xử phạt 170 vụ, giảm 221 vụ (giảm 56,52%); tổng số tiền xử phạt là 645,41 triệu đồng, giảm 564,30 triệu đồng (giảm 46,65%) so với cùng kỳ năm trước.
Vụ vi phạm môi trường điển hình đã xử lý trong 6 tháng đầu năm 2024: ngày 25/04/2024, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã ra ra quyết định xử phạt Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng TTP có địa chỉ tại xã Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An về hành vi khai thác cát lòng sông mà không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền cấp với số tiền 350 triệu đồng.
8. Thiệt hại thiên tai
Trong quý II/2024 không xảy ra thiên tai, không thay đổi so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Tính từ đầu năm đến nay không xảy ra thiên tai và không thay đổi so cùng kỳ năm trước.
Trên đây là một số tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh./.
BBT
Thêm ý kiến góp ý