Vị thế chiến lược
Sau thời Bắc thuộc, vào giai đoạn đầu tự chủ của quốc gia Đại Việt (thế kỷ XI – XV), mặc dù có những biến động về không gian lãnh thổ nhưng vùng Hoan Diễn nói chung, đặc biệt là vùng phía Nam (nay là tỉnh Hà Tĩnh) luôn là miền biên viễn, trọng trấn phương Nam. Theo ý kiến chung của nhiều học giả, thì trong thế đối diện, đối thoại hằng xuyên với các quốc gia láng giềng, khu vực Nghệ - Tĩnh là đại diện, đồng thời là tuyến đầu, địa bàn chiến lược trong việc bảo vệ an ninh; thiết lập, mở rộng quan hệ với thế giới bên ngoài (Nguyễn Văn Kim, Tham luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ tư, 2012). Trên phương diện kinh tế đối ngoại, Nghệ - Tĩnh là nơi hội lưu của các tuyến giao thương trên đất liền và trên biển, đặc biệt chiếm một vị trí quan trọng của “Con đường tơ lụa trên biển” với một hệ thống cảng biển từng sầm uất, tấp nập một thời.
Theo Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch thì vùng Hà Tĩnh có 6 cửa biển (Cửa Hội, Cửa Cương Gián, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu, Cửa Xích Lỗ) và từ thời Lý – Trần đã có 5 thương cảng: Hội Thống, Cửa Sót, Nhượng Bạn, Hải Khẩu, Xích Lỗ. Nhiều tài liệu lịch sử và khảo cổ học đã chứng minh có một số cảng biển Hà Tĩnh từng rất sầm uất, như cảng Cửa Sót (ngày trước, các thuyền buôn của người Tàu sang ta đều vào cửa ấy – Nghệ An Ký), Hội Thống, hoặc cảng vùng Kỳ Anh (Kỳ Hoa thời Trần không phải chỉ là một cảng tiền tiêu của Đại Việt – bởi bên kia là đất Chămpa, mà còn là một thương cảng sầm uất cho tới thời Lê – ý kiến của nhà Khảo cổ học Trịnh Cao Tưởng)…
Theo sách Đại Nam nhất thống chí thì đến thế kỷ XIX hoạt động giao lưu, buôn bán ở vùng Nghệ Tĩnh vẫn còn khá sôi động; tỉnh Hà Tĩnh có đến 14 chợ, 15 quán và 31 cầu đò. Nhiều nhà khảo cổ học đã khẳng định từng có một nền văn hóa cảng thị ở Hà Tĩnh – “Văn hóa cảng thị Hà Tĩnh có hai đặc điểm lớn: một là sự hình thành một sắc thái văn hóa mang đặc điểm riêng của xứ Nghệ, thể hiện khá rõ ở Nghi Xuân trên nền tảng một nền kinh tế cảng thị đã tạo ra nhiều giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc bên bờ của nó và các làng nghề nhứ gốm Cổ Đạm, bán buôn Giang Đình; hai là văn hóa cảng thị Hà Tĩnh là sự giao thoa của các nền văn hóa khác nhau: Việt – Chăm (cửa Nhượng), Việt – Hoa (Phù Thạch) và cả Việt – Nhật (Triều Khẩu)…” (Trịnh Cao Tưởng, Nghiên cứu khảo cổ học một số thương cảng cổ vùng miền Bắc Việt Nam).
Như vậy, có thể khẳng định rằng trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, biển Hà Tĩnh với vị thế địa – văn hóa hiếm có đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quan hệ giao thương của đất nước và trong giao lưu, tiếp biến văn hóa của dân tộc. Sau thời kỳ “bế quan tỏa cảng”, hiện nay đất nước ta đang tiến hành hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, việc xuất hiện khu kinh tế Vũng Áng và cụm cảng nước sâu Vũng Áng – Sơn Dương trên địa bàn Hà Tĩnh cũng chính là một sự tiếp mạch của dòng chảy lịch sử, sẽ tạo nên sự đột khởi cho phát triển kinh tế - xã hội nhưng cũng cần thiết phải nhìn nhận, lưu ý thêm các yếu tố chiến lược về quốc phòng, an ninh để đảm bảo sự phát triển một cách bền vững nhất, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ trong xu thế toàn cầu hóa.
Tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế du lịch
Với 137 km bờ biển, với vùng lãnh hải rộng khoảng 20 ngàn km2, với vị trí địa lí là điểm giữa của cầu nối tuyến Bắc – Nam và cửa ngõ phía Đông của trục Đông – Tây, phải khẳng định rằng Hà Tĩnh có lợi thế để phát triển du lịch biển đảo. Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cũng xác định du lịch nghỉ dưỡng biển là một trong những sản phẩm du lịch chủ lực của khu vực Bắc Trung bộ.
Trước hết, đó là hệ thống di tích hết sức phong phú, đa dạng của vùng ven biển Hà Tĩnh, từ Hội Thống vào đến Hoành Sơn Quan. Trong số 73 di tích cấp quốc gia và 322 di tích cấp tỉnh, có hơn 30% nằm ở các xã ven biển với đầy đủ các loại hình như đình, chùa, đền thờ, nhà thờ, am miếu.Cùng với điều kiện tự nhiên là có nhiều bãi biển đẹp như Xuân Thành, Chân Tiên, Thạch Hải, Thiên Cầm, Kỳ Ninh, Mũi Đao và dồi dào về nguồn lợi hải sản - ưu điểm của các bãi biển Hà Tĩnh là cát mịn, nước trong xanh, sóng hiền hoà, trong đó bãi biển Thiên Cầm theo Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” là 1 trong 46 khu du lịch quốc gia, bờ biển Hà Tĩnh còn có một lợi thế rất lớn về tài nguyên nhân văn để kết hợp hài hòa giữa du lịch nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, du lịch tâm linh.
Thứ hai là cùng với hệ thống di tích, di sản văn hóa phi vật thể vùng ven biển cũng hết sức đậm đặc. Đó là những lễ hội lớn gắn với các di tích cấp quốc gia như lễ hội Sỹ - Nông - Công - Thương ở Xuân Thành, lễ hội đền Chiêu Trưng ở cửa Sót, lễ hội chùa Chân Tiên ở Lộc Hà, lễ hội Cầu Ngư ở Cẩm Nhượng, lễ hội đền Chế Thắng phu nhân ở Kỳ Anh… Có nhiều loại hình dân ca, dân vũ gắn với tín ngưỡng dân gian của cư dân ven biển như hát sắc bùa, hò chèo cạn, ví, giặm, đi cà kheo v.v…
Đặc biệt, là hệ thống truyền thuyết, dã sử, những sáng tác thơ văn nổi tiếng gắn với các danh thắng, di tích vùng ven biển, là tài nguyên hết sức hấp dẫn nếu biết khai thác, phát huy để thu hút du khách. Đó là truyền thuyết về những chuyến tuần du của các Vua Hùng ở núi Thiên Cầm, là dấu chân Tiên ở Thịnh Lộc, truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung hiện còn dấu tích ở khu Quỳnh Viên trên núi Long Ngâm cửa Sót, là câu chuyện về cha con Hồ Quý Ly bị bắt giữ ở Thiên Cầm, núi Cao Vọng; là những chuyến chinh phạt, tuần du phương Nam của các triều vua như Trần Duệ Tông và cung phi Nguyễn Thị Bích Châu (di tích Đền thờ Chế Thắng phu nhân), 10 bài thơ nổi tiếng của Hoàng đế Lê Thánh Tông, trong đó có 8 bài về các cửa biển, hải đảo (Tên 8 bài thơ: Đảo Song Ngư, Đan Nhai hải khẩu, Nam Giới hải khẩu, Kỳ La hải khẩu, Hà Hoa hải khẩu, Xích Mộ hải khẩu, Sa Tắc cảng ngẫu thành, Chế Thắng hải khẩu từ…).