Do những đặc điểm riêng về địa lý tự nhiên và lịch sử, suốt thời kỳ Bắc
thuộc và thời kỳ Đại Việt, Hà Tĩnh là đất phên
dậu của nước nhà. Các cuộc chiến tranh từ Bắc vào, từ Nam ra thường xuyên
xảy ra trên mảnh đất này. Nhân dân Hà Tĩnh vừa anh dũng đấu tranh chống giặc
ngoại xâm để giữ gìn non sông đất nước, vừa chống thiên tai khắc nghiệt để tồn
tại và phát triển. Thời cận, hiện đại, Hà Tĩnh luôn đứng đầu sóng ngọn gió, đảm
đương vai trò “cái đòn gánh gánh hai đầu
đất nước”. Dường như lịch sử đã tin Hà Tĩnh, nên giai đoạn nào cũng chọn Hà
Tĩnh, đặt lên vai Hà Tĩnh cái gánh nặng của sự sinh tồn dân tộc. Đặc biệt,
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vai trò, vị trí ấy trở thành đặc
trưng của Ngã ba Đồng Lộc. Nơi đây, từ năm 1965 đến năm 1973 đã diễn ra cuộc
chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân miền Bắc chống chiến tranh phá
hoại tàn khốc, dã man của đế quốc Mỹ để bảo vệ miền Bắc XHCN, giữ vững mạch máu
giao thông, chi viện chiến trường miền Nam, đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Ngã ba Đồng Lộc - một giao điểm của những tuyến đường giao thông huyết
mạch chiến lược độc đáo không chỉ của Hà Tĩnh mà của miền Trung, của đất nước.
Ngã ba Đồng Lộc - một cuộc đối đầu lịch sử giữa lòng yêu nước, ý chí kiên cường
của dân tộc Việt Nam với sức mạnh hủy diệt của chiến tranh hiện đại. Ngã ba
Đồng Lộc biểu hiện sinh động nhất, cao nhất chủ nghĩa nhân văn cao cả của quân
và dân Việt Nam. Ngã ba Đồng Lộc - một địa điểm lịch sử có sức thu hút và lan
tỏa các giá trị văn hóa tinh thần, có bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam bất
chấp không gian, thời gian.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã lùi xa hơn 43 năm, giờ đây, chúng
ta đã có độ lùi để tiếp nhận và nhìn những đặc trưng của Ngã ba Đồng Lộc từ
nhiều phía, để suy ngẫm sâu sắc hơn, đầy đủ hơn các giá trị tiêu biểu của
nó.
1. Ngã Ba Đồng Lộc có vị trí đặc
biệt. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 -1918), để thực hiện chính
sách khai thác thuộc địa, thực dân Pháp xây dựng nhiều tuyến đường ở Hà Tĩnh.
Ngoài đường số 1, xây dựng từ năm 1913 đến 1925, đường tỉnh lộ 2 từ Ngã ba Ba
Giang lên Lạc Thiện xây dựng vào những năm 1915 - 1930, đến năm 1952, Hà Tĩnh
mở con đường mới khởi phát từ đường tỉnh lộ 3 tại Khe Giao nối với tỉnh lộ 2
tại Đồng Lộc tạo thành ngã ba Đồng Lộc. Ngã ba Đồng Lộc, một ngã lên Đức Thọ,
Hương Sơn sang Lào, một ngã lên Hương Khê vào Quảng Bình sang Khăm Muộn - Lào,
một ngả là tỉnh lộ 2 nối với Quốc lộ 1 tại Ba Giang. Đây là những tuyến đường
quan trọng trong phát triển kinh tế thời bình và trong quốc phòng thời chiến.
Trong chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ chọn Ngã ba Đồng Lộc để đánh phá nhằm
cắt đứt mọi sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Quân
và dân miền Bắc đã chấp nhận cuộc đối đầu lịch sử, với ý chí quyết tâm xây dựng
Ngã ba Đồng Lộc thành pháo đài chống lại sự hủy diệt. Ngã ba Đồng Lộc trở thành
yết hầu giao thông Hà Tĩnh, là nơi
hội tụ, nơi khởi phát, nơi chuyển tiếp những giá trị văn hóa cao cả của quân và
dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
2. Ngã ba Đồng Lộc - điểm
đối đầu lịch sử giữa các giá trị văn hóa, một xung đột giữa sức mạnh của lòng
yêu nước, ý chí kiến cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam với sự tàn bạo của
giặc Mỹ xâm lược.
Ngày 7/5/1965, Ban Bí
thư Trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ ra quyết định về một số vấn
đề về Giao thông vận tải ở các tỉnh Khu IV, nêu rõ: “Phải bảo đảm giao thông vận tải trên các tuyến đường chiến lược, bảo
đảm tốt cho yêu cầu vận chuyển cho các tỉnh khu 4, trước hết là bảo đảm yêu cầu
cho miền Nam và Lào về vũ khí, chất đốt, một phần lương thực và một số yêu cầu cần thiết khác.” Đấy là
thời điểm, sau trận bắn tên lửa xuống Đèo Con, Kỳ Anh, đánh bom Núi Nài, Nghi
Xuân, Hương Khê, Mỹ liên tục ném bom xuống các tuyến đường giao thông đường bộ,
đường thủy. Đấy cũng là giai đoạn, lực lượng trực tiếp đánh trả của ta rất
mỏng. Ty Giao thông vận tải chỉ có 6 đội Công trình giao thông, 11 đội Chủ lực
giao thông và một số đội quản lý đường sông, một số công ty vận tải. Đến tháng
6 năm 1965, thực hiện Chỉ thị 71/TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Hà Tĩnh
thành lập Tổng đội TNXP 25 rồi Tổng đội TNXP 53, Tổng đội TNXP 55. Tháng 9 năm 1965,
thành lập thêm Tổng đội TNXP Phục vụ Thủy lợi, và Tổng đội TNXP phục vụ đường
Gòong..
Các đại đội 551, 554, 557,
552 của Tổng đội TNXP 55 và Đại đội 53 Tổng đội TNXP 53 cắm chốt tại Ngã ba
Đồng Lộc. Đồng hành cùng lực lượng TNXP là lực lượng Dân quân tự vệ, Công an,
Bưu điện, Y tế, Thương nghiệp, Lương thực, Văn hóa - Thông tin,... Lực lượng vũ
trang có Đại đội pháo 37, tiểu đoàn 8 pháo cao xạ, Trung đoàn pháo cao xạ 210
thuộc sư đoàn 367. Họ lao động, chiến đấu trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, khốc
liệt. Tính riêng trong vòng ba tháng, từ ngày 10/4 đến ngày 7/7/1965, Mỹ tập
trung đánh vào tất cả cầu cống trên đường số 1, đường số 15, đường số 8. Từ
tháng 4 đến tháng 10/1968, máy bay địch trút xuống Ngã ba Đồng Lộc gần 50.000
quả bom các loại. Bình quân địch đánh 28 ngày trong một tháng, ngày đánh nhiều
nhất với 103 lần bay với trên 800 quả bom các loại.
Ba nghìn ngày đêm, 16
nghìn con người đội mưa bom, bão đạn, vượt bão lũ, hứng nắng mưa, bám trụ trên
mảnh đất 0,6 km2 hừng hực khói lửa, không ngại gian khổ hy sinh,
kiên cường, mưu trí, sáng tạo bảo đảm các tuyến đường qua Ngã ba Đồng Lộc thông
suốt, chuyển tải vũ khí, lương thực, thực phẩm quân trang, quân dụng của hậu
phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam phục vụ chiến đấu chống kẻ thù xâm
lược.
3. Chiến thắng Đồng Lộc
là kết quả tất yếu của đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh với phương châm chỉ đạo: Giao
thông là mạch máu của mọi việc. Giao thông tắc thì việc gì cũng tắc. Giao thông
tốt thì việc gì cũng dễ dàng, được thể hiện kịp thời, nhuần nhuyễn, phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử. Ngay từ đầu năm 1965, khi thất bại ở chiến trường
miền Nam, Mỹ chuyển sang tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhận định: Nếu đế quốc Mỹ
động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại. Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Hà Tĩnh nhận định: Sắp tới, đế quốc Mỹ sẽ dùng máy bay đánh vào Hà Tĩnh và
đã chỉ đạo khẩn trương tăng cường lực lượng vũ trang, lực lượng đảm bảo giao
thông vận tải, tổ chức, huy động lực lượng chiến đấu gắn với nhiệm vụ sản xuất
xây dựng đời sống. Đường lối chiến tranh nhân dân đã phát huy tối đa tính sáng
tạo của mỗi cá nhân, mỗi tập thể. Rất nhiều sáng kiến ra đời từ thực tế đánh
trả máy bay Mỹ, sáng kiến “phá thế độc
tuyến” mở thêm hàng chục con đường mới’ sáng kiến “cầu dẫn ở các bến phà”, sáng kiến “ủi bom”, “ phá bom nổ chậm
bằng ắc quy điện”, “trồng cây trên cầu che mắt địch”. Còn bao nhiêu sáng
kiến có giá trị khác mà chưa được thống kê, nghiên cứu.
Bên cạnh lực lượng trực
tiếp chiến đấu bảo đảm giao thông ở Ngã ba Đồng Lộc còn một lực lượng hùng hậu
không có gì có thể thay thế là nhân dân. Trải qua hai lần chiến tranh phá hoại
của giặc Mỹ (1965 - 1968 và 1972), các xã chung quanh khu vực Đồng Lộc bị bom
đạn Mỹ giết hại 336 người, bị thương 346 người, cháy 3.738 ngôi nhà, thiệt hại 2.400
tấn gạo, chết 420 con trâu, bò. Khi giặc Mỹ thực hiện lối đánh có tính chất hủy
diệt xuống 20 xã và 45 hợp tác xã ở ba huyện Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, nhiều
vùng, miền khác trong tỉnh cũng chìm trong khói lửa. Nhân dân Hà Tĩnh với quyết
tâm sắt đá: “Đường chưa thông không tiếc
xương, tiếc máu” và tinh thần: “Địch
phá một, ta làm mười.”. Chưa bao giờ lực lượng kháng chiến toàn dân được
huy động hiệu quả như những ngày chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Mỗi
người dân là một chiến sỹ. Mỗi cơ quan, đơn vị là một pháo đài chiến đấu. Giai
cấp nông dân tập thể có khẩu hiệu “Tay
cày tay súng”, tuổi trẻ hăng hái thực hiện “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, đội ngũ trí thức có khẩu hiệu “tay bút tay súng”. Đấy là giai đoạn “Toàn dân ra trận”. Liên tiếp trong 3 dịp
Tết Nguyên đán năm 1966, 1967, 1968, tranh thủ thời gian không có bom đạn Mỹ,
quân và dân Hà Tĩnh đã đóng góp 50 vạn lượt người với hơn 4 triệu ngày công làm
được một khối lượng công việc khổng lồ: tu sửa, hàn gắn hàng trăm km đường, cầu
cống, mở 11 tuyến đường mới có tổng chiều dài bằng độ dài các tuyến đường thực
dân Pháp xây dựng trên đất Hà Tĩnh trong 80 năm đô hộ; vận chuyển hơn 50 vạn
tấn hàng hóa an toàn đến tận các địa chỉ theo kế hoạch. Nhân dân đã tạo nên một
thế trận vững chắc, rộng khắp, với sức mạnh vô song, làm thất bại hoàn toán âm
mưu kẻ thù xâm lược, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Cần có thêm
nhiều nghiên cứu chiến tranh nhân dân từ một điểm cụ thể Ngã ba Đồng Lộc để rút
ra những bài học lý luận cũng như thực tiễn về sức mạnh của nhân dân trong xây
dựng và phát triển bền vững kinh tế, văn hóa - xã hội.
4. Chiến thắng Đồng Lộc
thể hiện sinh động chủ nghĩa nhân văn cao cả của quân và dân Hà Tĩnh. 10 năm
chiến tranh, ở Ngã ba Đồng Lộc có 16.000 con người chiến đấu trong sự quan tâm,
yêu thương, đùm bọc của nhân dân trong tỉnh, trong nước và nhân dân yêu chuộng
hòa bình trên toàn thế giới. Tình cảm quân và dân, tình cảm giữa con người với
con người là một trong những nét đặc trưng của Ngã ba Đồng Lộc, đã tô đậm thêm
bản sắc văn hóa Việt Nam.
Bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân giao
thông, dân quân tự vệ, công an, nông dân, trí thức... kề vai sát cánh, chia sẻ
ngọt bùi trong sinh hoạt, trong lao động, trong chiến đấu, trong học tập. Mưa
bom bão đạn, thiếu thốn và cả đau thương không làm nguội tắt lòng lạc quan,
tình yêu thương, của các thế hệ chiến đấu trên Ngã ba Đồng Lộc. Tình yêu nam
nữ, tình đồng đội tình yêu gia đình, tình yêu thiên nhiên, tình yêu văn chương
nghệ thuật... được thể hiện một cách hồn nhiên, trong sáng, sâu sắc, cứ nồng
đượm, mặc kệ những khốc liệt gian nan của chiến tranh. Tất cả đã tạo nên nghị
lực, sức mạnh cho họ vượt qua mọi gian khổ hy sinh chiến thắng kẻ thù xâm lược.
5. Đất nước thống nhất đã hơn 40 năm. Thời gian đang làm nguôi dần nỗi đau mất mát. Những sườn đồi lở lói, những hố bom chằng chịt đã được màu xanh che phủ. Nhưng những nụ cười và những giọt nước mắt đẫm khói bom 50 năm trước thì chưa phai mờ. Ngã ba Đồng Lộc thời chiến tranh, với những bản sắc riêng có vẫn nguyên vẹn trong ký ức bao thế hệ người Hà Tĩnh, trong văn chương nghệ thuật, ở các hiện vật trong Khu di tích lịch sử TNXP Ngã ba Đồng Lộc. Những giá trị văn hóa giàu bản sắc sản sinh ở Ngã ba Đồng Lộc trong chiến tranh đã thành di sản, bồi đắp dày dặn thêm truyền thống văn hóa- cách mạng Hà Tĩnh, bồi dưỡng tâm hồn, cốt cách, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì đại nghĩa, vì quê hương đất nước, cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Đức Ban*
Thêm ý kiến góp ý