Chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống đang từng ngày thay
da đổi thịt trên quê hương Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc năm xưa bị địch phá nát, hố
bom chi chít, nay được xây dựng khang trang, đẹp đẽ với những cụm hạng mục công
trình có ý nghĩa sâu sắc, hiển hiện như những minh chứng bền vững về ý chí tự
cường dân tộc, lòng yêu nước sâu sắc, lý tưởng cách mạng cao đẹp của quân và
dân ta, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc.
Vào thời điểm
ác liệt nhất, những năm Mỹ ném bon đánh phá miền Bắc 1965 - 1968, Ngã ba Đồng
Lộc trở thành một túi bom luôn hứng chịu các loại bom nặng nhất của Mỹ; Quốc lộ
15A là “yết hầu” trên tuyến đường từ Bắc vào Nam. Địch trút xuống mảnh đất này
đủ loại bom với tần suất cả ngày lẫn đêm, khiến mảnh đất Đồng Lộc trong nhiều
năm liền không một phút giây được ngơi nghỉ tiếng bom đạn.
Bản thân tôi là một trong những người may mắn được lành
lặn trở về từ chiến trường Đồng Lộc, được sống trong hòa bình, độc lập, tự do
của đất nước. Đã qua hơn 50 năm, kể từ khi còn là một cô gái trẻ ở độ tuổi mười
tám, đôi mươi, cho đến tận bây giờ cảm xúc về đồng đội và lúc thực hiện nhiệm
vụ thông đường cho xe ra tiền tuyến vẫn vẹn nguyên trong tôi.
Thời ấy, những chàng trai, cô gái lứa tuổi chúng tôi phơi phới xuân xanh, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại khu vực Ngã ba Đồng Lộc. Nhiệm vụ hàng ngày của chúng tôi là phát hiện bom rơi, đánh dấu và phá nổ bom, san lấp hố bom, đảm bảo thông đường các đoàn xe chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh Mỹ. Tôi còn nhớ Tiểu đội nữ A4 của Ngã ba Đồng Lộc lúc đó có 12 chị em. Những người lớn tuổi nhất là Võ Thị Tần, Nguyễn Thị Nhỏ, Hồ Thị Cúc chỉ mới 24, người nhỏ tuổi nhất là Võ Thị Hà mới 17 tuổi, tất cả chưa ai lập gia đình. Với khí thế cả nước đánh giặc, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, theo tiếng gọi của Tổ quốc, chúng tôi một lòng xung phong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nào ai có đắn đo, tính toán thiệt hơn. Là lực lượng thanh niên xung phong - đơn vị chủ lực trong san lấp đường, phục vụ xe và bộ đội hành quân vào Nam, tất cả chúng tôi với khí thế “3 sẵn sàng” và ý chí “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”đã quyết tâm bám đường, bám cầu để bảo đảm cho xe thông tuyến bất kể ngày hay đêm; cứ địch phá là chúng tôi lại sửa chữa. Bản thân tôi là một thành viên thuộc C2 đơn vị chủ lực của ngành giao thông vận tải huyện Can Lộc, được điều về Ngã ba Đồng Lộc từ tháng 12/1967 đến tháng 8/1968. Trong những ngày tháng chiến đấu đó tôi được giao nhiệm vụ trinh sát bom. Mỗi ngày nhiều lần, tôi vượt qua bãi bom lên đỉnh núi Mòi làm nhiệm vụ: khi máy bay địch thả bom lắng nghe, dùng ống nhòm quan sát để đếm, xác định vị trí rơi của từng quả, chạy xuống cắm tiêu báo bom để các lực lượng khác rà phá. Rất nhiều lần địch ném bom xung quanh núi Mòi, bom tạt ngay trước mặt rất nguy hiểm, nhưng tôi cũng không rời vị trí, vì đây là nơi quan sát tốt nhất.
Ở trên đỉnh đồi quan sát hàng ngày, tôi thấy rất rõ tội ác của
giặc Mỹ, lòng căm thù và quyết tâm cao độ càng thôi thúc tôi phải tinh mắt,
tinh tai, nhanh nhẹn, quyết đoán để xác định chính xác nhất vị trí bom rơi, loại
bom, quả nào đã nổ, quả nào chưa nổ. Sau mỗi trận đánh, tôi rời đỉnh đồi, chạy
xuống vùng Ngã ba để cắm tiêu bên cạnh mỗi quả bom. Nhiều lúc vừa xuống tới bãi
thì địch quay trở lại. Có lúc chúng ném đủ các loại bom nổ ngay, nổ chậm, bom
bi, bắn cả đạn 20 ly vào ngay nơi tôi vừa tới. Đất đá ở đây rắn lại và sắc như
mảnh bom. Thế mà mỗi ngày, 3 hay 4 lần tôi đi suốt một vòng khu vực Ngã ba để
làm nhiệm vụ. Lúc đầu chưa quen, tôi mới dám vào gần cách quả bom 5 mét. Thấy
như thế vẫn chưa đáp ứng yêu cầu cần thiết, tôi nghĩ thà chết một mình nhưng bảo
đảm an toàn cho hàng chục người làm nhiệm vụ, vì vậy tôi đã mạnh dạn vào sát hơn
các quả bom để cắm tiêu. Hàng mấy chục lần bom nổ gần, đất đá vùi lấp cả người,
nhưng tôi lại đứng dậy tiếp tục công việc của mình. Những ngày cắm tiêu nhiều
bom, chạy nhiều lần về nhà say nắng, tôi không ăn được cơm. Nhưng sáng hôm sau nghĩ
đến đồng đội và an toàn cho đoàn xe ra tiền tuyến, tôi lại vượt bãi bom lên đồi
quan sát cả ngày. Suốt thời gian làm nhiệm vụ trinh sát ở Ngã ba tôi đã vào tận
nơi cắm tiêu để công binh “khai tử” 1.205 quả bom các loại của giặc Mỹ.
Những tháng ngày làm nhiệm vụ của chúng tôi lúc đó chắc rằng
không ai nghĩ gì về cái chết hay sự vun vén, tư lợi gì cho bản thân. Mỗi cán bộ,
chiến sỹ, thanh niên xung phong cũng như chúng tôi một lòng nỗ lực cao nhất để
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thực sự, tôi là người rất may mắn khi trong bom đạn lại
được sự quan tâm của các phóng viên báo chí. Hình ảnh người con gái còn
rất trẻ khoác chiếc áo dù với chiếc ống nhòm luôn sẵn sàng làm nhiệm vụ, đã lọt
vào ống kính của nhiếp ảnh gia Văn Bảo; bức ảnh về tôi đã được đăng nhiều lần
trên các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân và cả trên báo Sự thật của Liên Xô
(cũ). Sau này, trong những dòng tâm sự của mình, nhiếp ảnh gia Văn Bảo đã nói: “Phụ nữ bao giờ cũng đẹp. Nhưng có lẽ trong
chiến tranh, họ lại đẹp rạng ngời và trở thành niềm say mê trong cuộc đời cầm
máy ảnh đi chiến trường của tôi. Có nhiều người đã lọt vào ống kính của tôi,
nhưng La Thị Tám đã để lại trong tôi một ấn tượng không thể nào quên…”.
Hình ảnh tập thể, là đồng đội của mình, những người con gái Quân khu IV vốn rất
kiên cường, bất khuất mà trong đó có tôi vinh dự là người đại diện được Nhạc sỹ
Doãn Nho khắc họa trong bài hát “Người
con gái Sông La”. Mùa đông năm 1970, khi được nghe bài hát này, tôi đã bật
khóc với cảm xúc không nói nên lời. Vinh quang và công lao thuộc về tập thể
nhưng bản thân tôi cũng đã vinh dự nhận được nhiều
Bằng khen và Huân chương Chiến công hạng Nhất. Cuối năm 1968, tôi vui mừng được
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng Huy hiệu của Người; ngày 22/12/1969, tôi được Nhà
nước phong tặng Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân khi mới ngoài 20 tuổi. Đây
là niềm vinh dự lớn lao và là động lực để suốt cuộc đời tôi luôn phấn đấu
hoàn thành tốt nhiệm vụ dù ở những vị trí công tác khác nhau.
Giờ đây, sau nhiều năm công tác ở Đảng ủy Khối
cơ quan tỉnh, tôi về nghỉ hưu tại phường Nam Hà, thành phố Hà Tĩnh. Hàng năm, mỗi
độ tết đến, xuân về hay dịp tháng 7, tôi đều về lại Ngã ba Đồng Lộc để thăm lại
chiến trường xưa, thăm anh, chị, em và đồng đội thân yêu đã hòa dòng máu đỏ
tươi và tấm thân mình để làm nên chiến thắng; cho Tổ quốc hồi sinh, cho đất nước
thống nhất, nhân dân được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc. Dẫu biết rằng,
Đảng và Nhà nước ta, các cấp, các ngành đã có nhiều chủ trương, chính sách, nhiều
hoạt động chăm lo các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sỹ, thương binh, bệnh binh,
cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong và những người có nhiều cống hiến cho
quê hương, đất nước. Với tấm lòng của một người đã qua chiến tranh bom đạn, tôi
vẫn mong muốn ngày càng nhiều hơn các nghĩa cử cao đẹp, hành động tri ân; không
phải cho cá nhân tôi mà cho đồng đội tôi, những người hàng ngày vẫn phải chịu nỗi
đau một phần thân thể không lành lặn, vì sức khỏe yếu hay phải sống cuộc sống
khó khăn, vất vả. Họ chính là những người một thời không hề nghĩ cho mình mà chỉ
một lòng vì sự nghiệp thống nhất đất nước.
Khát vọng của chúng tôi, lớp thanh niên đi trước, mong được trao truyền trọn vẹn cho thế hệ tuổi trẻ ngày nay. Các em, với điều kiện được học hành đến nơi đến chốn, có trí tuệ, sức trẻ và nhiệt huyết của tuổi thanh niên hãy sống làm sao cho xứng đáng với những hy sinh, cống hiến của cha anh; làm sống dậy mạnh mẽ tinh thần cách mạng của quê hương Hà Tĩnh, của dân tộc Việt Nam anh hùng; dương cao ngọn cờ Đoàn, cờ Đảng, cùng đất nước, quê hương tiến lên giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như mục tiêu mà Đảng đã đề ra./.
Thêm ý kiến góp ý