Hà Tĩnh bổ sung 89 giáo viên mầm non và phổ thông công lập   |    Pháo hoa rực sáng bầu trời Hà Tĩnh đón chào năm mới Giáp Thìn 2024   |    Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tăng cường bảo đảm trật tự, ATGT   |    Dịch bệnh truyền nhiễm dự báo tiếp tục có nguy cơ xuất hiện, lây lan các biến thể mới   |    Xây dựng các bảng lương mới áp dụng từ giữa năm 2024   |   

Tình hình kinh tế- xã hội 9 tháng đầu năm 2021

  

07:10 28/09/2021

Năm 2021 là năm đầu của nhiệm kỳ, năm có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, một năm là điểm tựa, là bản lề cho 5 năm thực hiện kế hoạch phát trển kinh tế xã hội nhiệm kỳ 2020 - 2025. Tuy nhiên, nhìn lại 9 tháng qua, việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh diễn ra trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế, trong nước tiếp tục có những biến động lớn, nhất là đại dịch Covid-19 vẫn chưa được kiểm soát; giá chi phí đầu vào tăng trong khi thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ thiếu ổn định; một số hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội bị ngưng trệ, thu hẹp sản xuất; một số ngành, lĩnh vực của nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề; ảnh hưởng lớn đến tâm lý và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, thời tiết diễn biến phức tạp cũng gây thiệt hại đến cây màu ở một số vùng, địa phương; trong chăn nuôi dịch viêm da nổi cục trên trâu, bò, dịch tả lợn châu phi hồi đầu quý I, quý II đã gây thiệt hại không nhỏ đến số lượng, doanh thu của doanh nghiệp, người nông dân..vv

Trong bối cảnh đó, cả hệ thống chính trị đã tập trung phòng, chống dịch trên địa bàn toàn tỉnh; các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; bằng sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự đồng lòng của nhân dân, Hà Tĩnh đã đạt được những kết qủa khá tích cực; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm, đời sống người dân được bảo đảm; quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tỉnh tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn do dịch Covid-19 như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay, gia hạn nộp thuế, bảo hiểm xã hội… Đồng thời, tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng và thi công các công trình dự án, nhất là các dự án trọng điểm. Tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đấu tư, tích cực hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp.

1. Tài chính, ngân hàng

1.1 Hoạt động tài chính

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 9 tháng năm 2021 gặp nhiều khó khăn do đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư đang gây sức ép nặng nề lên mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Chi ngân sách Nhà nước tập trung ưu tiên hỗ trợ kịp thời để mua sắm vật phẩm, trang thiết bị y tế phục vụ công tác phòng chống dịch Covid-19, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng, đảm bảo an sinh xã hội và an ninh, quốc phòng.


Tổng thu ngân sách nhà nước (đã loại trừ hoàn thuế) sơ bộ tính đến ngày 15/9/2021 đạt 10.688,80 tỷ đồng (tăng 53,27% so với cùng kỳ). Trong đó, thu nội địa đạt 5.237,27 tỷ đồng (chiếm 49 % trong tổng thu) giảm 1,03% so với cùng kỳ, tập trung chủ yếu vào các nguồn thu lớn như từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài, thuế ngoài quốc doanh đạt 2.060,63 tỷ đổng giảm 29,62%; các khoản thu về nhà đất đạt 1.693,87 tỷ đổng tăng 57,33% so với cùng kỳ năm 2020. Bên cạnh thu nội địa thì thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng khá so với cùng kỳ sơ bộ đạt 4.701,44 tỷ đồng (chiếm 43,98% tổng thu) tăng 533,12% so với cùng kỳ.

Mặc dù thu ngân sách gặp khó khăn nhưng việc điều hành và thực hiện dự toán chi ngân sách địa phương cơ bản đảm bảo triển khai kịp thời các nhiệm vụ phát sinh cũng như các nhiệm vụ bổ sung từ nguồn ngân sách Trung ương. Tổng chi ngân sách nhà nước sơ bộ tính đến ngày 15/9/2021 đạt 15.300,51 tỷ đồng tăng 8,7% so với cùng kỳ. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển sơ bộ đạt 7.644,49 tỷ đồng chiếm 49,94% tổng chi, tăng 20,30% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 7.649,63 tỷ đồng chiếm 50% tổng chi, giảm 0,85% so với cùng kỳ năm 2020.

1.2 Hoạt động ngân hàng

Trước tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ở một số địa phương, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã thực hiện hiệu quả đồng bộ các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán tiền mặt cho doanh nghiệp và người dân trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Nhìn chung hoạt động ngân hàng Hà Tĩnh trong 9 tháng năm 2021 tiếp tục ổn định và có bước tăng trưởng.

 Kết quả 9 tháng năm 2021, nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng tăng trưởng so với đầu năm, đáp ứng nhu cầu vốn có hiệu quả cho nền kinh tế.

Ước nguồn vốn huy động đến 30/9/2021 đạt 85.262 tỷ đồng, tăng 21,77% so với đầu năm. Nguồn vốn huy động tăng trưởng tốt qua các tháng. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 10.126 tỷ đồng, chiếm 11,88% tổng nguồn vốn huy động, tăng 14,29% so với đầu năm; tiền gửi tiết kiệm ước đạt 57.016 tỷ đồng tăng 6,37%, tiền gửi thanh toán ước đạt 27.798 tỷ đồng tăng 74,54%.


Dư nợ cho vay đến 31/9/2021 đạt 67.697 tỷ đồng, tăng 12,35% so với so với đầu năm. Trong đó, dư nợ ngắn hạn đạt 44.135 tỷ đồng (chiếm 53,39% tổng dư nợ), tăng 19,78% so với đầu năm; dư nợ trung dài hạn đạt 23,562 tỷ đồng (chiếm 46,61% tổng dư nợ) tăng 0,66%. Dư nợ đối với các lĩnh vực ưu tiên đạt 29.952 tỷ đồng, tăng 9,56% so với đầu năm. Tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng khá, trong đó tín dụng đối với cho vay nông nghiệp nông thôn tăng 9,18% so với đầu năm, cho vay thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu tăng 222,13% so với đầu năm, cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 7,22% so với đầu năm.

Các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định điều hành lãi suất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, không có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, vượt trần. Lãi suất huy động phổ biển ở mức 0,1-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; từ 3,1-3,7%/năm đối với tiền gửi từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; từ 4- 5,9%/năm đối với tiền gửi từ 6 tháng đến dưới 12 tháng và đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên là từ 5,5-6,7%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến từ 4,5-8,4%/năm, từ 8,4-11%/năm đối với khoản vay trung, dài hạn. Công tác quản lý ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng được triển khai thực hiện nghiêm túc tại địa bàn. Các TCTD thực hiện nghiêm túc các quy định về niêm yết tỷ giá.

Tính đến 31/9/2021 nợ xấu ước tính 516 tỷ đồng, chiếm 0,76% tổng dư nợ (giảm 0,29% so với 6 tháng). Nhìn chung tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ở mức thấp, giảm so với các năm trước và nằm trong giới hạn cho phép.

2. Giá cả, lạm phát

Tháng 9 củng như 9 tháng năm 2021, tình hình giá cả trên thị trường đều có sự biến động lớn. Một số nhóm hàng hóa dịch vụ có chỉ số giá tăng cao so cùng kỳ như: Nhóm hàng lương thực, may mặc, dịch vụ giáo dục, vật liệu xây dựng, lương thực, nhiên liệu xăng dầu, hàng điện tử, đồ uống; Tình hình dịch bệnh covid-19 diễn biến phức tạp khiến hoạt động nhập khẩu đồ dùng gia đình, hàng may mặc, hàng điện tử, hàng nông sản, đồ uống từ thị trường nước ngoài như Thái Lan và Trung Quốc gặp khó khăn


- CPI tháng 9 giảm 0,64% so với tháng trước và tăng 0,78% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 03 nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng so với tháng trước (May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,22% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 4,1%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 1,25%; giáo dục tăng 0,02% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 0,17%; có 05 nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm so với tháng trước (Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,68% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước giảm 3,67%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 2,42% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 2,58%; giao thông giảm 0,32% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 10,32%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,04% so tháng trước, tăng 0,15% so cùng tháng năm trước; hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,19% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 2,61%); có 03 nhóm không có biến động về chỉ số so với tháng trước gồm (Đồ uống và thuốc lá; thuốc và dịch vụ y tế; bưu chính viễn thông)

Một số yếu tố tác động đến thị trường tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ trong tháng 9/2021, đó là: (1) Dịch bệnh Covid-19 diễn biến trong thời gian dài đã ảnh hưởng lớn đến các khâu cung ứng hàng hóa, dịch vụ và thu nhập chung của người dân; (2) Yếu tố mùa vụ: Gạo và hoa quả giảm giá sau khi lúa vụ Hè Thu và bưởi địa phương cho thu hoạch. Cùng với đó là việc các cơ sở giáo dục, dịch vụ được hoạt động trở lại ảnh hưởng đến các mặt hàng phục vụ các hoạt động trên; (3) Giá nhiên liệu xăng dầu giảm theo sự điều chỉnh của các cơ quan quản lý, ảnh hưởng đến chỉ số nhóm giao thông và chi phí trung gian các nhóm hàng hóa khác, tác động vào giá bán lẻ chung trên thị trường.

Giá xăng dầu bình quân trong tháng trên địa bàn tỉnh giảm sau các kỳ điều chỉnh. Trong khi đó, do dịch bệnh Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, nhiều tuyến xe vận tải hành khách, xe buýt vận tải nội tỉnh phải tạm ngừng hoạt động đến ngày 23/9/2021 mới được phép hoạt động trở lại. Hoạt động vận tải hàng hóa cũng gặp nhiều khó khăn; Chỉ số giá vàng tăng 0,22% so với tháng trước, giảm 3,91% so với cùng tháng năm trước; chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,26% so với tháng trước, giảm 0,29% so với cùng tháng năm trước.

- Tính chung CPI 9 tháng năm 2021 tăng 1,59% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị tăng 2,2%; khu vực nông thôn tăng 1,34% so với cùng kỳ năm trước. Nếu phân theo nhóm ngành hàng thì nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,29%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,76%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 3,93%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,59%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,18%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; giao thông tăng 5,61%; bưu chính viễn thông tăng 0,04%; giáo dục tăng 13,39%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,34%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,63% so với cùng kỳ năm trước.

Một số yếu tố chính ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng đầu năm như sau: (1) Giá cả nhóm vật liệu xây dựng và xăng dầu ở mức cao hơn nhiều so cùng kỳ năm trước theo xu hướng của thị trường thế giới; (2) Tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp khiến hoạt động cung ứng hàng hóa từ các tỉnh khác và nhập khẩu từ nước ngoài gặp khó khăn. Đặc biệt, nguồn tiền của các nhóm đối tượng làm việc tại các khu công nghiệp trong nước và nước ngoài gửi về giảm, thu nhập của người dân chịu ảnh hưởng khiến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ giảm sút; (3) Dịch bệnh trên đàn gia súc diễn biến phức tạp, kéo dài đã ảnh hưởng đến nguồn cung ứng ra thị trường và nhu cầu tiêu dùng của người dân.

 Dự kiến tháng 10/2021, Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ dự kiến tăng hơn so tháng 9/2021. Giá gạo và thịt gia súc có thể tăng trở lại, khi vấn đề đầu ra ổn định hơn sau khi các tỉnh khu vực phía bắc ổn định, kiểm soát được dịch bệnh Covid-19. Các nhóm đồ dùng gia đình giá trị cao, hàng điện tử, dịch vụ lữ hành, lưu trú tiếp tục gặp khó khăn.

3. Đầu tư và xây dựng

3.1 Vốn đầu tư phát triển


 Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện giai đoạn 2016-2021 liên tục giảm qua các năm. Sở dĩ vốn đầu tư toàn xã hội đang có xu hướng giảm mạnh là do những năm qua nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư, nhưng nay nguồn vốn khu vực này giảm mạnh. Trong 9 tháng năm 2021 kinh tế Hà Tĩnh vẫn gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, việc thực hiện giãn cách xã hội tại thành phố Hà Tĩnh và phong tỏa 1 số địa bàn các huyện Hương Sơn, Thạch Hà vào đầu tháng 6 vừa qua củng đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thi công, thực hiện các công trình dự án.

  Dự ước nguồn vốn 9 tháng năm 2021 đạt 18.263 tỷ đồng, bằng 100,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

- Nguồn vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 4.896,8 tỷ đồng, giảm 3,75% so với cùng kỳ năm trước. mặc dù vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng 20,02% so với cùng kỳ năm trước, song do nguồn vốn trái phiếu Chính phủ chuyển đổi đầu tư công, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh do đó vốn đầu tư khu vực Nhà nước giảm 3,75% so với cùng kỳ.

 - Nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước ước đạt 12.870,4 tỷ đồng, tăng 22,43% so với cùng kỳ. Một dự án ngoài nhà nước hiện đang xây dựng trên địa bàn tỉnh như dự án Nhà máy chế biến gỗ An Việt Phát với nguồn vốn đầu tư, Dự án Nhà máy bia Hồng Lĩnh của Tập đoàn Hoành Sơn tiếp tục triển khai sau khi nhập được máy móc thiết bị, Dự án nhà máy thủy điện Ngàn trươi - Cẩm trang đẩy nhanh tiến độ thi công. Ngoài ra, doanh nghiệp ngoài nhà trên địa bàn đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư hệ thống điện mặt trời trên địa bàn cũng tăng mạnh. Bên cạnh đó, dự ước vốn đầu tư hộ dân cư đạt 8.678,8 tỷ đồng tăng 12,07%, nguyên nhân tăng do nguồn lực thi công hộ dân cư chủ yếu là cá thể, nguồn lực lao động tăng do các công nhân nước ngoài về nước, mặt khác giá vật liệu thi công tăng mạnh do đó giá trị xây dựng nhà ở cũng tăng theo.

 - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 495,7 tỷ đồng, giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước (bằng 19,72%). Nguyên nhân do Dự án Gang thép Formosa chiếm phần lớn tỷ trọng vốn nước ngoài, tuy nhiên dự án này đang giảm dần đầu tư do dự án đã hoàn thành. Ngoài ra dự án khu bến cảng Phonix, Dự án điện mặt trời Sơn Quang tạm ngừng thi công, Dự án điện mặt trời Cẩm Xuyên đã hoàn thành và đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh cuối năm 2020.

 3.2 Hoạt động Xây dựng

9 tháng năm 2021, Hà Tĩnh cũng như cả nước đang chịu ảnh hưởng của dịch Covid- 19 bùng phát lần thứ 4, một số dự án lớn trên địa bàn tạm ngừng thi công do thiếu nguyên vật liệu đầu vào; việc giải phóng mặt bằng chậm, năng lực nhà thầu yếu, giá cả nguyên vật liệu (đặc biệt là thép) tăng cao củng đã ảnh hưởng lớn đến công tác triển khai thi công xây dựng các công trình; trong giải ngân vốn nhà nước vẫn đạt mức độ thấp so với cùng ký năm trước đã làm giảm giá trị sản xuất ngành xây dựng trên địa bàn toàn tỉnh

Trong 9 tháng vửa qua, mặc dù nguồn vốn được bổ sung kịp thời cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và sự huy động mọi nguồn lực của các đơn vị thi công; tuy nhiên tình hình thực hiện và giải ngân vốn nhà nước vẫn đạt mức độ thấp so với cùng ký năm trước. Nguyên nhân do thời gian đầu năm, chủ yếu đang thực hiện các công trình vốn chuyển tiếp từ các năm trước. Những dự án mới, hiện các đơn vị đang tập trung cho bước chuẩn bị đầu tư như lập dự án, thiết kế, báo cáo kinh tế kỹ thuật;… dẫn đến việc thi công công trình chậm; việc giải phóng mặt bằng chậm, năng lực nhà thầu yếu, giá cả nguyên vật liệu (đặc biệt là thép) tăng cao củng đã ảnh hưởng lớn đến công tác triển khai thi công xây dựng các công trình…Bên cạnh đó, trong quý III/2021, dịch bệnh diễn biến phức tạp và lan rộng trong nước cũng như trên địa bàn tỉnh, nhiều địa phương thực hiện giãn cách xã hội, nguồn cung ứng vật tư cũng chậm trễ, do đó dự ước giá trị sản xuất ngành xây dựng 9 tháng năm 2021 giảm mạnh so với cùng kỳ.

Dự ước giá trị sản xuất ngành xây dựng trên địa bàn Hà Tĩnh 9 tháng đầu năm 2021 theo giá hiện hành đạt 13.514 tỷ đồng, bằng 92,79% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực vốn doanh nghiệp nhà nước ước đạt 7,49 tỷ đồng, bằng 4,4 lần so với cùng kỳ; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước ước đạt 4.905 tỷ đồng, bằng 79,97% so với cùng kỳ; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ước đạt 133,98 tỷ đồng, bằng 55,64% với cùng kỳ năm trước; loại hình khác ước đạt 8.467 tỷ đồng, bằng 103,41% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị xây dựng loại hình xã, phường, thị trấn ước đạt 543 tỷ đồng, bằng 61,07% so với cùng kỳ năm trước; giá trị xây dựng hộ ước đạt 7.924,4 tỷ đồng, bằng 108,57% so với cùng kỳ năm trước.

Nhìn chung kết quả hoạt động ngành xây dựng 9 tháng đầu năm 2021 trên địa bàn Hà Tĩnh giảm hơn so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh các yếu tố về khó khăn chung của nền kinh tế như tình hình dịch bệnh Covid-19, giá vật liệu xây dựng tăng cao thì nguyên nhân chủ yếu là do gặp khó khăn trong bố trí nguồn ngân sách phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là nguồn vốn trung ương hỗ trợ mục tiêu và nguồn vốn ODA. Mặt khác, mặc dù đã có nhiều công trình, dự án đăng ký đầu tư trên địa bàn nhưng chỉ mới ở giai đoạn lập hồ sơ, chưa đầu tư nên không có các công trình lớn đầu tư xây dựng mới trong thời gian qua. Để hoạt động xây dựng 3 tháng cuối năm đạt kết quả khả quan hơn cần phải triển khai thực hiện các công trình dự án trên địa bàn tỉnh đảm bảo theo đúng tiến độ như dự án nhiệt điện Vũng Áng 2, dự án thành phố giáo dục Nguyễn Hoàng, các khu đô thị….

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

4.1. Tình hình đăng ký kinh doanh


Thời gian vừa qua, Hà Tĩnh tiếp tục tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Đến ngày 17/9/2021, toàn tỉnh có 765 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 8.341 tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 6.180 lao động (tăng 11,84% về số doanh nghiệp, tăng 67,18% về vốn đăng ký, tăng 18,7% về số lao động so với cùng kỳ năm trước). Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt gần 11 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2020 là 7,3 tỷ đồng). Tỷ lệ hồ sơ đăng ký qua mạng điện tử tăng cao, chiếm gần 60% hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.

Song song với số lượng doanh nghiệp thành lập mới, trong 9 tháng vừa qua, tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, cụ thể toàn tỉnh có 344 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động (tăng 26% so với cùng kỳ năm 2020), 93 doanh nghiệp giải thể (tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2020). Việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp những tháng cuối năm tăng khá trong khi doanh nghiệp giải thể giảm so với cùng kỳ năm ngoái là tín hiệu tích cực cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế.

4.2 Thu hút đầu tư

Tính đến ngày 20/9/2021, tỉnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 37 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký gần 2.922 tỷ đồng và 01 dự án đầu tư nước ngoài gần 2,5 tỷ USD (dự án Nhiệt điện Vũng Áng II).

Khởi công 03 dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng cụm công nghiệp (tại Can Lộc, thị xã Hồng Lĩnh và huyện Đức Thọ) tổng mức đầu tư 700 tỷ đồng; khánh thành, đưa vào hoạt động giai đoạn 1 của Nhà máy sản xuất, chế biến lâm sản tiêu thụ nội địa và xuất khẩu An Việt Phát tổng mức đầu tư gần 1.300 tỷ đồng tại Khu kinh tế Vũng Áng. Ký kết với Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn về việc thiết lập tuyến container Vũng Áng, đến nay đã có 12 chuyến cập bến. Ban hành chính sách hỗ trợ các hãng tàu và doanh nghiệp vận chuyển hàng bằng container qua Cảng Vũng Áng, tạo sự hấp dẫn trong thu hút đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, tăng thu ngân sách và giải quyết việc làm cho người lao động.

Đã và đang kêu gọi, kết nối, làm việc, xúc tiến dự án đầu tư với các nhà đầu tư chiến lược hàng đầu trong xây dựng phát triển tổ hợp công nghiệp ô tô, đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp, hạ tầng đô thị, du lịch dịch vụ tại khu kinh tế và các khu du lịch biển. Tổ chức làm việc với một số nhà đầu tư lớn tìm hiểu đầu tư vào địa bàn tỉnh: Công ty Cổ phần Tập đoàn TH khảo sát, nghiên cứu đầu tư các dự án tại Vũ Quang và Hồ Kẻ Gỗ; Tập đoàn VSIP nghiên cứu, khảo sát đầu tư dự án phát triển hạ tầng khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ tại huyện Can Lộc và Thị xã Hồng Lĩnh; Tập đoàn Vingroup nghiên cứu, khảo sát đầu tư Dự án Nhà máy sản xuất ô tô Vinfast tại Khu kinh tế Vũng Áng và nghiên cứu đầu tư Khu du lịch nghĩ dưỡng Kỳ Ninh; Công ty cổ phần Vịnh Nha trang khảo sát đầu tư khu đô thị du lịch, sân gôn Kỳ Nam và khu đô thị Xuân Hồng; Tập đoàn Tân Cơ và LNG Centra (Hoa Kỳ) nghiên cứu đầu tư trung tâm nhập khẩu và phân phối khí LNG...

 Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn trong 9 tháng năm 2021 tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn là thành phần chủ lực đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh.

4.3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

*Đối với Doanh nghiệp hoạt động Xây dựng

9 tháng đầu năm 2021, dịch bệnh Covid-19 đã gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn. Tuy nhiên, qua tổng hợp kết quả điều tra các doanh nghiệp hoạt động ngành xây dựng có 12,59% ý kiến cho rằng thuận lợi hơn và 25,87% ý kiến cho rằng không thay đổi và 60,84% ý kiến cho rằng khó khăn trong quý IV/2021. Trong đó: Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước có 25,36% ý kiến cho rằng không thay đổi, 12,33% ý kiến cho rằng thuận lợi hơn và 61,59% ý kiến cho rằng khó khăn hơn. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 40% ý kiến cho rằng không thay đổi và 40% ý kiến cho rằng khó khăn hơn và 20% ý kiến cho rằng thuận lợi hơn. Hoạt động sản xuất kinh doanh quý IV/2021 dự kiến tiếp tục gặp nhiều khó khăn do tình hình dịch bệnh trong nước vẫn chưa được kiểm soát, thiếu hụt vật tư, hàng hóa do giảm nguồn cung. Một số ngành dịch vụ trên địa bàn cũng chưa đi vào hoạt động. Riêng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn do chủ yếu thực hiện công trình thuộc dự án Formosa, nhưng đến nay cơ bản dự án đã hoàn thiện. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng tiếp tục gặp khó khăn trong quý IV/2021, có 69,93% ý kiến cho rằng khó khăn hơn, 13,99% ý kiến cho rằng không thay đổi và 11,88% ý kiến cho rằng thuận lợi hơn. Trong đó: Doanh nghiệp ngoài nhà nước có 70,29% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 60% ý kiến cho rằng khó khăn hơn.

- Tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý IV/2021 có xu hướng tăng, chiếm 41,26%; yếu tố nguyên vật liệu xây dựng có xu hướng tăng chiếm 41,96%; chi phí nhân công và số lao động thường xuyên và lao động thời vụ có xu hướng không thay đổi trong quý tiếp theo chiếm 40,56%.

*Đối với Doanh nghiệp hoạt động Công nghiệp

- Dự báo xu hướng về tình hình sản xuất kinh doanh quý IV/2021 khả quan hơn so quý III/2021 khi có 68,18% DN nhận định SXKD quý IV sẽ tốt hơn và giữ ổn định so với quý III (trong đó 18,18% số DN dự báo tốt lên và 50% số DN dự báo giữ ổn định), có 31,82% số DN dự báo tình hình sản xuất vẫn tiếp tục gặp khó khăn hơn quý trước.

- Dự báo xu hướng quý IV/2021 so với quý III/2021: Có 20,46% doanh nghiệp có số lượng đơn đặt hàng mới tăng lên; 36,36% giảm đi. Các doanh nghiệp dự báo quý IV/2021 số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sẽ gặp khó khăn và doanh nghiệp cố gắng duy trì số lượng đơn đặt hàng như quý trước (54,55% nhận định giữ nguyên như quý III, 45,45% DN dự định giảm số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu và không có DN nào nhận định lượng hàng xuất khẩu tăng lên). Có 31,82% doanh nghiệp đánh giá tồn kho thành phẩm giảm (ngành có tỷ lệ tồn kho thành phẩm giảm mạnh là sản xuất đồ uống; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; sản xuất phương tiện vận tải khác; ...); 31,82% doanh nghiệp có tồn kho nguyên vật liệu giảm và có 4,55% doanh nghiệp có chi phí sản xuất trên một sản phẩm và giá bán bình quân trên một đơn vị sản phẩm giảm.

 5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

 Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi: Rét đậm, hạn hán không diễn ra gay gắt như cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa và sản lượng cây lâu năm đạt khá; đàn lợn tiếp tục đà hồi phục, đàn gia gia cầm phát triển tốt. Sản xuất lâm nghiệp phát triển, thị trường xuất khẩu các mặt hàng gỗ và lâm sản được mở rộng. Sản xuất thủy sản khả quan hơn so với cùng kỳ năm trước, giá các mặt hàng nông sản có xu hướng tăng.

5.1. Sản xuất nông nghiệp

a. Trồng trọt

*Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đạt 158.893 ha, bằng 102,04% (tăng 3.179 ha) so với năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt ước đạt 632.253 tấn, so với thực hiện năm trước bằng 108,94% (tăng 51.859 tấn). Nhìn chung, kết quả sản xuất cây hàng năm năm 2021 đạt kết quả thắng lợi khá toàn diện, nhất là đối với cây lúa, vượt mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Kết quả cụ thể đối với một số cây trồng chủ lực như sau:

- Cây lúa:


 Diện tích gieo trồng lúa cả năm ước tăng 1.028 ha so với năm 2020. Trong đó: Diện tích lúa vụ Đông Xuân tăng 151 ha, vụ Hè Thu ước tăng 905 ha và vụ Mùa ước giảm 28 ha so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng diện tích là do vụ Xuân cây lúa phát triển tốt cho năng suất, sản lượng cao, giá thu mua lúa khá cao so với những năm trước, tạo động lực cho người dân tiến hành gieo cấy vụ Hè Thu. Mặt khác, một số xã do hệ thống kênh mương đã được kiên cố hóa chủ động được nguồn nước tưới tiêu nên nhiều diện tích những năm trước bỏ hoang năm nay người dân tiến hành gieo cấy. Năng suất gieo trồng lúa cả năm 2021 ước tăng 3,82 tạ/ha so với năm trước, trong đó: Năng suất lúa vụ Đông Xuân tăng 4,11 tạ/ha, vụ Hè Thu ước tăng 3,71 tạ/ha và vụ Mùa ước tăng 1,09 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân năng suất lúa tăng cao là do sản xuất lúa vụ Đông Xuân năm nay thắng lợi toàn diện cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Năng suất lúa đạt cao nhất kể từ trước đến nay, vụ lúa này cũng được đánh giá được mùa nhất từ trước tới nay và khá đồng đều ở tất cả các địa phương trong tỉnh.

Tổng sản lượng lúa năm 2021 ước tăng 45.365 tấn so với năm 2020. Trong đó: Sản lượng lúa vụ Đông Xuân tăng 24.425 tấn, vụ Hè Thu ước tăng 20.930 tấn và vụ Mùa ước tăng 10 tấn so với cùng kỳ năm trước. Do các vụ tăng cả diện tích và năng suất nên tổng sản lượng lúa cả năm tăng hơn so với năm 2020.

- Một số cây hàng năm khác

+ Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô năm 2021 ước tính đạt 12.185 ha, bằng 116,83% (tăng 1.756 ha) so với năm trước. Trong đó: Diện tích ngô vụ Đông Xuân 2020-2021 đạt 10.181 ha, bằng 116,86% (tăng 1.469 ha) so với cùng kỳ năm trước; vụ Hè Thu ước đạt 2.004 ha, bằng 116,69% (tăng 287 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích ngô vụ Đông Xuân tăng so với cùng kỳ do vụ Đông năm 2019-2020 diện tích ngô của huyện Hương Khê gieo trỉa bị hư hỏng không khắc phục được nên diện tích giảm mạnh. Năng suất ngô cả năm ước đạt 43,35 tạ/ha, bằng 97,59% (giảm 1,07 tạ/ha) so với năm trước. Trong đó: Năng suất gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 44,80 tạ/ha, bằng 94,36% (giảm 2,67 tạ/ha) và vụ Hè Thu ước đạt 36,02 tạ/ha, bằng 124,41% (tăng 7,07 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng ngô cả năm ước đạt 52.825 tấn, bằng 114,02% (tăng 6.494 tấn) so với năm 2020.

+Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng khoai lang năm 2021 ước đạt 3.570 ha, bằng 103,76% (tăng 129 ha) so với năm trước. Trong đó: Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân đạt 2.944 ha, bằng 101,2% (tăng 35 ha) so với cùng kỳ năm trước; vụ Hè Thu ước đạt 556 ha, bằng 122,22% (tăng 101 ha) so với cùng kỳ năm trước; vụ Mùa ước đạt 70 ha, bằng 91,78% (giảm 7 ha) so với cùng kỳ năm trước. Năng suất khoai lang cả năm ước đạt 72,59 tạ/ha, bằng 102,37% (tăng 1,68 tạ/ha) so với năm trước. Trong đó: Năng suất gieo trồng vụ Đông Xuân đạt 75,84 tạ/ha, bằng 103,32% (tăng 2,44 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước; vụ Hè Thu ước đạt 59,17 tạ/ha, bằng 100,32% (tăng 0,19 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước; vụ Mùa ước đạt 41,98 tạ/ha, bằng 89,6% (giảm 4,87 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khoai lang cả năm ước đạt 25.918 tấn, bằng 106,22% (tăng 1.517 tấn) so với năm 2020.


+ Cây sắn: Diện tích sắn năm 2021 ước đạt 2.450 ha, bằng 90,35% (giảm 262 ha) so với năm 2020. Năng suất ước đạt 150,80 tạ/ha, bằng 98,22% (giảm 2,76 tạ/ha), với sản lượng ước đạt 36.950 tấn, bằng 88,15% (giảm 4.969 tấn) so với năm trước. Nguyên nhân giảm do sản lượng sắn thu hoạch được chủ yếu để làm thức ăn chăn nuôi. Tuy nhiên, do sắn khó trồng, chế biến thành thức ăn chăn nuôi phải qua nhiều công đoạn nên một số diện tích người nông dân chuyển sang trồng cỏ sinh khối.

+ Cây lạc: Diện tích gieo trồng lạc năm 2021 ước đạt 10.377 ha, bằng 93,62% (giảm 707 ha) so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng đạt 10.022 ha, bằng 93,33% (giảm 716 ha) so với cùng kỳ năm trước; vụ Hè Thu ước đạt 355 ha, bằng 102,76% (tăng 10 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân giảm là do một số xã chủ động được nước tưới nên chuyển diện tích trồng lạc sang trồng lúa hoặc trồng rau cho kinh tế cao hơn. Ngoài ra, trồng lạc mất nhiều công sức và chi phí cao hơn các loại cây trồng khác nên người dân ít canh tác hơn làm cho diện tích lạc giảm. Năng suất lạc cả năm ước đạt 28,06 tạ/ha, bằng 112,31% (tăng 3,08 tạ/ha) so với năm trước. Sản lượng lạc cả năm ước đạt 29.122 tấn, bằng 105,15% (tăng 1.426 tấn) so với năm trước. Nguyên nhân năng suất, sản lượng lạc tăng hơn so với cùng kỳ năm trước là do vụ Xuân điều kiện thời tiết thuận lợi cộng với sự ổn định của bộ giống, quy trình chăm sóc theo hướng thâm canh là những yếu tố căn bản để tạo nên một mùa lạc bội thu.

+ Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng rau năm 2021 ước đạt 13.675 ha, bằng 104,77% (tăng 623 ha) so với năm 2020. Trong đó: Diện tích rau Vụ Đông Xuân đạt 10.754 ha, bằng 102,8% (tăng 293 ha) so với cùng kỳ năm trước; vụ Hè Thu ước đạt 2.709 ha, bằng 111,06% (tăng 270 ha) so với cùng kỳ năm trước và vụ Mùa ước đạt 211 ha, bằng 140,09% (tăng 60 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân làm diện tích rau năm nay đạt cao là do một số huyện đang tiến hành rộng rãi việc quy hoạch lại vườn tạp, làm vườn mẫu trong công cuộc thực hiện xây dựng nông thôn mới. Người dân đã chủ động chuyển đổi cơ cấu cây trồng tại vườn hộ theo hướng hiệu quả, cho giá trị kinh tế thông qua việc tăng diện tích rau các loại...Năng suất rau bình quân cả năm ước đạt 69,71 tạ/ha, bằng 100,99% (tăng 0,68tạ/ha) so với năm trước. Sản lượng rau cả năm ước đạt 95.326 tấn, bằng 105,81% (tăng 5.230 tấn) so với năm trước.

*Cây lâu năm

- Diện tích: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có ước đạt 31.845 ha, bằng 101,97%, tăng 615 ha so với cùng kỳ năm 2020, trong đó:

+ Diện tích cây ăn quả ước đạt 19.164 ha, bằng 102,72%, tăng 508 ha so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 60,18% tổng diện tích cây lâu năm. Các loại cây ăn quả có múi thuộc họ cam, quýt ước ước đạt 13.020 ha (diện tích cam ước đạt 7.397 ha), bằng 104,33%, tăng 540 ha so với cùng kỳ năm trước. Cây có múi chiếm 67,94% tổng diện tích cây ăn quả. Cây có múi vẫn đang là một trong những sản phẩm cây ăn quả hàng hóa chủ lực của Hà Tĩnh và đang được các địa phương quan tâm đầu tư sản xuất.

+ Diện tích cây cao su ước đạt 8.895 ha, bằng 99,88%, giảm 11 ha so với cùng kỳ năm 2020. Công ty cao su đã tiến hành thanh lý diện tích kém hiệu quả, chuyển đổi một phần diện tích cao su, đất rừng trồng của các công ty sang cây trồng khác cho hiệu quả cao hơn cũng như để phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

+ Diện tích chè búp ước đạt 1.243 ha, bằng 102,05%, tăng 25 ha và diện tích chè xanh (chè hái lá) ước đạt 1.854 ha, bằng 100,82%, tăng 15 ha so với cùng kỳ năm 2020. Diện tích chè trên địa bàn nhìn chung ổn định và tiếp tục được mở rộng thêm do cây trồng này phù hợp điều kiện thổ nhưỡng, sản phẩm dễ tiêu thụ, có lợi nhuận.

+ Diện tích cây lâu năm khác ước đạt 567 ha, bằng 97,93%, giảm 12 ha so với cùng kỳ năm 2020.

- Sản lượng: Do không ngừng đưa các tiến bộ khoa học vào sản xuất, cùng với điều kiện thời tiết thuận lợi, tỷ lệ đậu quả cao nên dự ước năng suất và sản lượng cây ăn quả tăng hơn so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, hiện nay ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 nên thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn và giá bán sản phẩm giảm hơn so với cùng kỳ năm trước.

+ Sản lượng cây ăn quả 9 tháng năm 2021 ước đạt 74.074 tấn, bằng 105,83%, tăng 4.078 tấn so với cùng kỳ năm 2020. Sản lượng các loại quả có múi thuộc họ cam, quýt ước đạt 37.431 tấn, bằng 110,62%, tăng 3.595 tấn so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng cam tăng 338 tấn, bưởi tăng 2.886 tấn. Thời điểm này, bưởi đang tập trung thu hoạch với giá 20-25 ngàn đồng/quả, giảm hơn so với năm trước.

+ Sản lượng cao su ước đạt 2.872 tấn, bằng 108,25%, tăng 219 tấn so với cùng kỳ năm 2020. Cây đến kỳ khai thác cho mủ khá tốt, chất lượng mủ cũng đáp ứng theo yêu cầu kỹ thuật. Sản phẩm gỗ cao su thanh lý ước đạt 965 m3, với giá trị ước tính 427 triệu đồng.

+ Sản lượng chè búp ước đạt 7.497 tấn, bằng 105,19%, tăng 370 tấn và sản lượng chè xanh (chè hái lá) ước đạt 15.600 tấn, bằng 103,24%, tăng 490 tấn so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chè búp tăng chủ yếu ở các địa phương: Hương Sơn tăng 178 tấn, Hương Khê tăng 125 tấn, huyện Kỳ Anh tăng 35 tấn...Các địa phương có sản lượng chè xanh (chè hái lá) tăng là: Can Lộc tăng 150 tấn, Thạch Hà tăng 147 tấn, Hương Sơn tăng 144 tấn, Đức Thọ tăng 98 tấn...

*Tình hình sâu bệnh, thiệt hại

Theo báo cáo của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, tình hình sâu bệnh xẩy ra đối với các loại cây trồng như sau:

- Vụ Đông Xuân: Trên cây lúa vụ Xuân 2021 các đối tượng dịch hại phát sinh gây hại nhẹ, diễn biến ở mức độ trung bình hoặc thấp hơn vụ Xuân 2020, cụ thể: Có khoảng 232 ha nhiễm bệnh đạo ôn lá, 94,5 ha nhiễm đạo ôn cổ bông; rầy nâu, rầy lưng trắng phát sinh gây hại nhẹ, diện tích nhiễm 3 ha; có 2.511 ha nhiễm bệnh khô vằn và 168 ha bị chuột hại. Đối với cây ngô: Sâu keo mùa thu, diện tích nhiễm 47 ha; bệnh đốm lá, diện tích nhiễm 15 ha; bệnh khô vằn, diện tích nhiễm 20 ha, phân bố tại Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang.

- Vụ Hè Thu: Trên cây lúa vụ Hè Thu 2021, các đối tượng dịch hại phát sinh gây hại nhẹ nhìn chung không ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển và năng suất lúa, cụ thể: Sâu cuốn lá nhỏ diện tích nhiễm 34 ha, không có diện tích nhiễm nặng; ốc bươu vàng diện tích nhiễm 180 ha; bệnh khô vằn diện tích nhiễm 1.163 ha; chuột hại 170 ha. Trên cây ngô thì sâu keo mùa thu, sâu cắn nõn diện tích nhiễm 15 ha và trên cây đậu sâu đục quả đậu diện tích nhiễm 10 ha.

- Cây ăn quả xuất hiện bệnh nứt thân xì mủ, vàng lá thối rễ, diện tích nhiễm 35 ha; câu cấu, diện tích nhiễm 150 ha; sâu vẽ bùa, diện tích nhiễm 135 ha, phân bố tại Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc.

b. Chăn nuôi


Hoạt động sản xuất chăn nuôi trên địa bàn Hà Tĩnh 9 tháng năm 2021 vẫn bị tác động của dịch bệnh, mà chủ yếu là đối với đàn gia súc. Vì vậy, tổng đàn cũng như sản lượng thịt hơi xuất chuồng có sự biến động với xu hướng đàn trâu, bò giảm, đàn lợn tăng nhẹ và đàn gia cầm tăng khá hơn so với cùng kỳ năm trước. Dịch tả lợn Châu Phi không dập tắt được triệt để mà vẫn còn xẩy ra ở một số địa phương; giá lợn hơi giảm mạnh trong khi giá thức ăn chăn nuôi tăng cao đã gây khó khăn cho việc tái đàn và phát triển đàn lợn nên tổng đàn cũng như sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, từ tháng 12/2020 đến tháng 8/2021, trên địa bàn Hà Tĩnh đã phát sinh dịch bệnh viêm da, nổi cục trên đàn trâu, bò gây thiệt hại nặng về kinh tế và ảnh hưởng đến số lượng đàn đại gia súc. Hiện nay, dịch bệnh viêm da nổi cục trên đàn trâu, bò đã được khống chế thành công nhưng vẫn còn có nguy cơ tái phát. Do ảnh hưởng của dịch bệnh đã làm cho số lượng cùng như sản lượng thịt trâu, bò hơi giảm so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi gia cầm không bị ảnh hưởng của dịch bệnh và giá bán sản phẩm tương đối ổn định nên kết quả chăn nuôi gia cầm tăng khá hơn so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Tĩnh, tính từ đầu năm đến ngày 15/9/2021, một số dịch bệnh xuất hiện trên đàn vật nuôi, cụ thể như sau: Dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 126 xã, thuộc 13 huyện, thành phố, thị xã với tổng số lợn mắc bệnh, buộc phải tiêu hủy là 14.971 con, với trọng lượng 1.122 tấn. Đến nay trên địa bàn tỉnh vẫn còn 05 ổ dịch chưa qua 21 ngày kể từ con lợn bị tiêu hủy cuối cùng; dịch LMLM gia súc đã xảy ra tại 05 xã, thuộc 03 huyện (Lộc Hà, Hương Khê, Đức Thọ), làm cho 396 con gia súc mắc bệnh. Đến nay, các ổ dịch LMLM gia súc đã qua 21 ngày; Dịch bệnh viêm da, nổi cục trên đàn trâu, bò đã xẩy ra tại 208 xã, phường, thị trấn của 13 huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh làm 17.686 con trâu, bò mắc bệnh, trong đó có 2.949 con bị chết. Hiện nay, dịch bệnh viêm da nổi cục trên đàn trâu, bò đã được khống chế thành công; dịch Cúm gia cầm (H5N6) xảy ra tại 2 xã thuộc huyện Thạch Hà làm 9.720 con gia cầm mắc bệnh bị tiêu hủy và dịch cúm gia cầm H5N8 xảy ra tại 01 xã thuộc huyện Cẩm Xuyên làm 3.147 con gia cầm mắc bệnh phải tiêu hủy.

Kết quả tiêm phòng đợt I năm 2021 tính đến ngày 15/9/2021: Tiêm phòng lở mồm long móng cho đàn trâu, bò 129.536 liều, đạt 83,4% kế hoạch; bệnh tụ huyết trùng trâu, bò đạt 125.700 liều, đạt 83,6% kế hoạch; dịch tả lợn 145.111 liều, đạt 68,2% kế hoạch; tụ huyết trùng lợn 144.0853 liều, đạt 69,6% kế hoạch; tiêm phòng dại cho chó 136.733 liều, đạt 98,5% kế hoạch và tiêm phòng dịch cúm gia cầm 1,056 triệu liều, đạt 35,5% kế hoạch.

5.2 Sản xuất Lâm nghiệp

Hoạt động sản xuất lâm nghiệp 9 tháng năm 2021 duy trì mức tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Kết quả trồng rừng tập trung 9 tháng năm 2021 tăng 54 ha so với cùng kỳ năm 2020. Diện tích trồng rừng chủ yếu tập trung ở các địa phương: huyện Kỳ Anh, huyện Hương Khê, huyện Hương sơn, huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà...Đối với hoạt động khai thác, do rừng sản xuất đến kỳ thu hoạch nên sản lượng lâm sản khai thác 9 tháng năm 2021 tăng 19.439 m3 so với cùng kỳ năm 2020. Kết quả trồng cây phân tán cũng tăng so với cùng kỳ năm trước.

Hoạt động sản xuất lâm nghiệp 9 tháng năm 2021 duy trì mức tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Kết quả trồng rừng tập trung 9 tháng năm 2021 tăng 54 ha so với cùng kỳ năm 2020. Diện tích trồng rừng chủ yếu tập trung ở các địa phương: huyện Kỳ Anh, huyện Hương Khê, huyện Hương sơn, huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà...Đối với hoạt động khai thác, do rừng sản xuất đến kỳ thu hoạch nên sản lượng lâm sản khai thác 9 tháng năm 2021 tăng 19.439 m3 so với cùng kỳ năm 2020. Kết quả trồng cây phân tán cũng tăng so với cùng kỳ năm trước.

Tính từ đầu năm đến ngày 15/9/2021, trên địa bàn Hà Tĩnh đã xẩy ra 3 vụ cháy rừng (giảm 7 vụ), với diện tích rừng bị cháy là 1,23 ha (giảm 57,57 ha) và 31 vụ phá rừng (giảm 13 vụ), với diện tích rừng bị phá là 10,47 ha (giảm 11,14 ha) so với cùng kỳ năm trước.

5.3 Thủy sản


Kết quả sản xuất thủy sản 9 tháng đầu năm 2021 vẫn ổn định và tiếp tục có sự tăng nhẹ với mức ước tăng tổng sản lượng thủy sản là 798 tấn so với cùng kỳ năm 2020. Sản lượng khai thác chiếm 69,73% tổng sản lượng thủy hải sản và tăng 609 tấn so với cùng kỳ năm 2020. Với những chuyến biển của ngư dân ra khơi khá thuận lợi và được mùa đã làm cho sản lượng khai thác biển ước tăng so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, hoạt động nuôi trồng thủy sản thời gian qua cũng được quan tâm thực hiện, với kết quả sản lượng nuôi trồng 9 tháng đầu năm 2021 ước tính tăng 189 tấn so với cùng kỳ năm 2020, trong đó sản lượng tôm ước đạt 3.179 tấn, tăng 44 tấn so với cùng kỳ. Thời gian qua do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 làm cho giá tôm giảm mạnh, người nuôi tôm gặp khó khăn. Những tháng cuối năm, điều kiện thời tiết xấu, mưa bão, lũ lụt xẩy ra bất thường nên hoạt động khai thác biển sẽ gặp khó khăn hơn.

Dịch bệnh trên tôm nuôi: Tính từ đầu năm đến ngày 15/9/2021, bệnh đốm trắng xảy ra tại 15 xã thuộc 6 huyện, thành phố, thị xã (Nghi Xuân, Lộc Hà, Cẩm Xuyên, huyện Kỳ Anh, thị xã Kỳ Anh và thành phố Hà Tĩnh), với diện tích nhiễm bệnh là 41,15 ha; bệnh hoại tử gan tụy cấp xảy ra tại 2 xã thuộc huyện Thạch Hà và 01 xã thuộc thành phố Hà Tĩnh, với diện tích nhiễm bệnh là 4,02 ha. Đến nay, vẫn còn 0,25 ha diện tích nuôi tôm bị bệnh đốm trắng do virus tại xã Đan Trường, huyện Nghi Xuân chưa qua 15 ngày.

6. Sản xuất công nghiệp


9 tháng năm 2021, mặc dù chịu tác động bởi dịch Covid-19 song hoạt động Ngành công nghiệp vẫn đạt mức tăng trưởng khá, Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp cộng tăng 16,56% so cùng kỳ năm trước đã đóng góp lớn điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với quy mô lớn và có chỉ số sản xuất mức tăng 22,89% đóng góp 17,26 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của ngành

 - Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP):

+ Ước tháng 9/2021, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp so với tháng 8/2021 ước tính giảm 7,4%, tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp dự tính tăng 3,81%. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 7,8% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước ngành này giảm 19,98%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,61% so với tháng trước và tăng 8,43% so cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 29,5% so với tháng trước và giảm 20,26% so cùng kỳ năm trước; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 1,61% so với tháng 8/2021 và tăng 2,86% so với tháng 9/2020.

+ Tính chung 9 tháng năm 2021, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục tăng, các doanh nghiệp nhìn chung hoạt động ổn định, sản xuất hiệu quả hơn so với năm 2020. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp cộng dồn 9 tháng năm 2021 tăng 16,56% so cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 12,55%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 22,89% đóng góp 17,26 điểm phần trăm (là ngành đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp); ngành sản xuất và phân phối điện giảm 2,93%, làm giảm 0,61 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 6,62%, làm giảm 0,21 điểm phần trăm vào mức tăng chung toàn ngành. Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đạt mức tăng khá chủ yếu nhờ đóng góp của ngành sản xuất kim loại cũng như hoạt động sản xuất của Công ty TNHH gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS). Nếu loại trừ yếu tố ảnh hưởng từ dự án Formosa , chỉ số sản xuất công nghiệp cộng dồn 9 tháng năm 2021 chỉ tăng 0,99% so với cùng kỳ năm trước.

+ Trong 25 nhóm ngành công nghiệp cấp 2 có 16 nhóm ngành có chỉ số sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 7 nhóm ngành có mức tăng cao, đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp như: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 47,79%; khai thác quặng kim loại tăng 35,13%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tre nứa tăng 27,39%; sản xuất kim loại tăng 25,83%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 24,9%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 23,91%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 16,45%.


+ Bên cạnh những ngành có chỉ số tăng thì trong 9 tháng qua, có 9 nhóm ngành giảm làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng toàn ngành như: Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu giảm 27,22%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 13,01%; sản xuất trang phục giảm 8,44%; khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 4,45%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 3,36%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 2,93%; sữa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 2,06%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 0,86%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 0,68%.- Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 9/2021 giảm 0,53% so với tháng trước và giảm 8,71% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2021 ước tăng 25,8% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tính chung 9 tháng năm 2021, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm công nghiệp tăng cao so với cùng kỳ, cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động công nghiệp chế biến, chế tạo.

- Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tháng 9/2021 tăng 34,78% so với tháng trước và tăng 170,53% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ chủ yếu là do tồn kho của sản phẩm than cốc của Công ty Formosa Hà Tĩnh (tăng 59,7 lần so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do Formosa sản xuất ra nguyên liệu chủ yếu giữ lại để phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy, tồn kho của Formosa không phải là không tiêu thụ được, mà do doanh nghiệp giữ lại nguyên liệu để phục vụ cho hoạt động của mình.

- Chỉ số sử dụng lao động: Tính chung 9 tháng năm giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Số lượng lao động của ngành khai khoáng giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 2,6% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện khí đốt tăng 0,3%, so với cùng kỳ năm trước; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải có chỉ số sử dụng lao động giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước.

 7. Thương mại, dịch vụ


9 tháng năm 2021, tình hình dịch covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh qua các tháng. Hoạt động kinh doanh các mặt hàng không thiết liên tiếp tạm ngừng hoạt động dài ngày. Các hoạt động kinh doanh nhà hàng, ăn uống tạm ngừng hoặc thu hẹp kinh doanh; hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch dừng hoạt động kể cả trong mùa du lịch. Cùng với đó, dịch viêm da nổi cục ở trâu bò, dịch tả lợn Châu Phi hoành hành cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh nhà hàng, ăn uống. Tuy nhiên, nhìn lại 9 tháng qua nhờ thực hiện hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới nên hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh vẫn đảm bảo cung, cầu thiết yếu cho người dân và toàn xã hội

 Tổng mức bán lẻ hàng hóa: Ước tính tháng 9/2021 đạt 3215,6 tỷ đồng tăng 4% so với tháng trước và giảm 10,35% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm bán lẻ tại các trung tâm thương mại, siêu thị ước đạt 15 tỷ đồng, tăng 31,59% so với tháng trước và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 31.209 tỷ đồng, tăng 7,23% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 13.507,7 tỷ đồng, tăng 0,48%; hàng may mặc ước đạt 1.560 tỷ đồng, tăng 21,32%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình ước đạt 3.291 tỷ đồng, tăng 1,15%; vật phẩm văn hóa giáo dục ước đạt 183,6 tỷ đồng, tăng 15,44%; gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 1.588 tỷ đồng, tăng 28,05%; ô tô con ước đạt 3.352 tỷ đồng, tăng 12,5%; phương tiện đi lại trừ ô tô con ước đạt 1.5545 tỷ đồng, giảm 1,34%; xăng dầu các loại ước đạt 2.789.055 triệu đồng, tăng 21,38%; nhiên liệu khác ước đạt 552,6 tỷ đồng, tăng 37,95%; đá quý, kim loại quý các loại ước đạt 453 tỷ đồng, tăng 31,88%; hàng hóa khác ước đạt 1.538 tỷ đồng, tăng 10,16%; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy ước đạt 838 tỷ đồng, tăng 15,13% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động bán lẻ hàng hóa trong 9 tháng năm 2021 có tăng so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù trong thời gian gần đây bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 nhưng thời gian giãn cách ngắn hơn và vùng giãn cách thu hẹp hơn so với 9 tháng đầu năm 2020. Cùng với đó, giá cả nhiều nhóm hàng hóa, dịch vụ tăng cao trong thời gian qua đã tác động làm tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa hơn so với cùng kỳ năm trước.

- Dịch vụ l­ưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ khác:

+ Ước tháng 9, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành đạt 70,6 tỷ đồng, giảm 13,91% so với tháng trước và giảm 82,37% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, Dịch vụ l­ưu trú ước đạt 2.597,8 triệu đồng, giảm 9,61% so với tháng trước, giảm 84,87% so với cùng kỳ năm trước. dịch vụ ăn uống ước đạt 68 tỷ đồng, giảm 14,07% so với tháng trước, giảm 82,22% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ du lịch lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch: Do tình hình dịch bệnh vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, chính quyền khuyến cáo hạn chế đi lại và tụ tập, cùng với tâm lý e ngại dịch bệnh, đó là lý do khiến cho hoạt động của các đơn vị kinh doanh lữ hành ngừng hoạt động, không phát sinh doanh thu.

+ Tính chung 9 tháng năm 2021, doanh thu hoạt động l­ưu trú, ăn uống, lữ hành ước đạt 2.761,8 tỷ đồng, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: L­ưu trú ước đạt 96.490,8 triệu đồng, giảm 37,29%; lượt khách phục vụ ước đạt 598.112 lượt, giảm 37,2% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 548.129 ngày, giảm 36,89% so với cùng kỳ năm trước; ăn uống ước đạt 2.658 tỷ đồng, giảm 9,3% so với cùng kỳ năm trước; du lịch lữ hành và dịch vụ hỗ trợ du lịch ước đạt 7,3 tỷ đồng, giảm 13,78% so với cùng kỳ năm trước.

- Doanh thu dịch vụ khác: 9 tháng năm 2021, doanh thu dịch vụ khác ước đạt 1.073 tỷ đồng, giảm 3,11% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nhóm kinh doanh bất động sản ước đạt 129 tỷ đồng, giảm 10,54%; hành chính và dịch vụ hỗ trợ ước đạt 284 tỷ triệu đồng, tăng 14,97%; giáo dục đào tạo ước đạt 41 tỷ đồng, giảm 34,81%; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội ước đạt 146,8 tỷ đồng, tăng 11,33%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí ước đạt 89,8 tỷ đồng, giảm 18,7%; dịch vụ khác ước đạt 381 tỷ đồng, giảm 7,19%.

Nhìn chung hoạt động dịch vụ 9 tháng năm 2021 đã có mức giảm so với cùng kỳ năm trước và đang còn vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Với tình hình diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 như hiện nay thì sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các ngành dịch vụ trong thời gian tới.

- Hoạt động vận tải:

+ Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi tháng 9/2021 ước đạt 270 tỷ đồng, tăng 2,01% so tháng trước và giảm 43,24 % so cùng kỳ năm trước trong đó: Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 8 tỷ đồng, tăng 9,59% so với tháng trước và giảm 94,49% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 194 tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước và giảm 26,96% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 68,4 tỷ đồng, giảm 0,16% so với tháng trước và tăng 4,98% so với cùng kỳ năm trước.

- Tính chung 9 tháng năm 2021, doanh thu vận tải ước tính đạt 3.347,8 tỷ đồng, giảm 10,13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vận tải hành khách ước đạt 716,9 tỷ đồng, giảm 32,2%; số lượng hành khách vận chuyển ước đạt 10.179,5 nghìn HK, giảm 30,85% và luân chuyển đạt 1.694.887 nghìn HK.km, giảm 35,69%; vận tải hàng hóa ước đạt 1.968 tỷ đồng, giảm 7,57%; khối lượng vận chuyển ước đạt 21.669,1 nghìn tấn, giảm 8,61% và luân chuyển ước đạt 550.500,8 nghìn tấn.km, giảm 9,82%. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 662, tỷ đồng, tăng 23,05% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động kinh doanh vận tải, kho bãi 9 tháng đầu năm 2021 giảm so với cùng kỳ. Tình hình dịch Covid - 19 vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp nên đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động vận tải trên địa bàn với kết quả giảm mạnh so với cùng kỳ.


Thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản của tỉnh, các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh hoạt động vận tải hành khách phải tạm dừng hoạt động vận tải hành khách đi và đến vùng cách ly y tế trong thời gian dài đã làm cho vận tải hành khách giảm mạnh, cùng với đó, nhiều cơ sở kinh doanh thương mại cũng tạm dừng hoạt động nên nhu cầu vận chuyển hàng hoá giảm. Bên cạnh đó, trong một số tháng lượng than bốc qua cảng giảm, kéo theo doanh thu dịch vụ kho bãi, hỗ trợ giảm. Tất cả yếu tố trên đã làm cho hoạt động vận tải 9 tháng năm 2021 giảm so với cùng kỳ năm trước

8. Xuất nhập khẩu hàng hóa

Mặc dù chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, nhưng tổng kim ngạch nhập khẩu 9 tháng năm 2021 Hà Tĩnh ước đạt 2.564,4 triệu USD, tăng 75,82% so với cùng kỳ. Qua đó, cho thấy sự phục hồi rõ rệt sau nhiều thách thức do đại dịch Covid-19 gây ra. Việc kim ngạch nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất của Formosa. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tham gia hoạt động xuất khẩu, xuất nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị phục vụ sản xuất, hàng hóa; hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường… Hà Tĩnh xây dựng Đề án đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gắn với phát triển dịch vụ logistics giai đoạn 2021-2025. Đồng thời ban hành Nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ các hãng tàu biển mở tuyến vận chuyên container và đối tượng có hàng hóa vận chuyển bằng container qua cảng Vũng Áng.

Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng năm 2021 ước đạt 1.490,6 triệu USD, tăng 106,63% so với cùng kỳ năm 2020; mức tăng chủ yếu do Formosa đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thép (xuất khẩu thép từ Formosa ước đạt 1386,1 triệu USD, chiếm tỷ trọng 92,98% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh).

9. Các vấn đề xã hội

9.1. Tình hình lao động và giải quyêt việc làm

Tình hình lao động, việc làm trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong quý III/2021 có dấu hiệu phục hồi. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm 0,1 điểm phần trăm so với quý II/2021.

- Lực lượng lao động: Ước tính quí III/2021, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Hà Tĩnh là 690.579 người, chiếm 53,05% dân số toàn tỉnh; tăng 0,48% so với quý II/2021, nhưng so với quý I/2021 giảm 0,67%. Trong tổng số lực lượng lao động 15 tuổi trở lên, lao động nam là 331.903 người, chiếm 48,06%; lao động thuộc khu vực thành thị là 144.796 người, chiếm 20,97%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý III năm 2021 (lực lượng lao động 15 tuổi trở lên so với dân số 15 tuổi trở lên) là 71,48%, tăng 0,34 điểm phần trăm so với quý II/2021 và giảm 0,48 điểm phần trăm so với quý I/2021.

Tính chung 9 tháng năm 2021, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính là 691.040 người, chiếm 53,08% dân số toàn tỉnh; trong đó lực lượng lao động nam là 331.732 người, chiếm 48% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 144.372 người, chiếm 20,89%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 9 tháng năm 2021 là 71,53%, trong đó: tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ là 72,48%, cao hơn 1,96 điểm phần trăm so với nam; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 70,36%, thấp hơn 1,48 điểm phần trăm so với ở nông thôn.

- Lao động có việc làm: Số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm ước tính quý III/2021 là 674.535 người, chiếm 97,68% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; tăng 0,97% so với quý II/2021, nhưng so với quý I/2021 giảm 0,61%. Trong tổng số: khu vực thành thị là 139.487 người, chiếm 20,68%; lao động có việc làm ở nam giới là 322.015 người, chiếm 47,74%.

Tính chung 9 tháng năm 2021, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên có việc làm là 673.750 người, chiếm 97,50% so với lực lượng lao động. Trong tổng số, lao động có việc làm ở thành thị là 139.135 người, chiếm 20,65%; ở nam giới là 321.232 người, chiếm 47,68%. Số lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 348.542 người, chiếm 51,73% trong tổng số; ngành công nghiệp và xây dựng là 119.623 người, chiếm 17,75%; ngành dịch vụ là 205.585 người, chiếm 30,51%.

- Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm: Ước tính quý III/2021, số người không có việc làm (thất nghiệp) là 16.044 người (chiếm 2,32% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên); xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp ước tính là 3,04%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với quý II/2021 và 0,04 điểm phần trăm so với quý I/2021. Tính chung 9 tháng năm 2021, số người không có việc làm (thất nghiệp) ước tính là 17.290 người, chiếm 2,5% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên; xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp 9 tháng năm 2021 ước tính là 3,09%.

Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở Hà Tĩnh, ước tính quý III/2021 là 3,02%, tăng 0,01 điểm phần trăm so với quý II/2021 và 0,02 điểm phần trăm so với quý I/2021. Tính chung 9 tháng năm 2021, ước tính tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 3,01%.

- Tình hình giải quyết việc làm: Quý III/2021, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động là 2.086 người, giảm 51,22% so với quý II/2021 và 64,95% so với quý I/2021, lần lượt lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh giảm 63,01% và 80,81%; lao động đi làm việc ngoại tỉnh giảm 70,57% và 54,75%; xuất khẩu lao động giảm 31,78% và 43,55%.

Ước tính 9 tháng năm 2021, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động là 12.314 người, đạt 55,97% kế hoạch năm 2021, tăng 9,05% so cùng kỳ năm 2020. Trong đó: lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 5.589 người, chiếm 45,39% trong tổng số, giảm 9,17%; lao động đi làm việc ngoại tỉnh 1.513 người, chiếm 12,29%, tăng 27,36%; xuất khẩu lao động 5.212 người, chiếm 42,32%, tăng 29,41%.

9.2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

- Đời sống dân cư: Nhằm ổn định tình hình đời sống người dân cũng như đảm bảo công tác phòng chống dịch, Hà Tĩnh đã kịp thời đảm bảo các chế độ, chính sách, cơ sở vật chất cho việc cách ly, điều trị, các trang thiết bị cần thiết. Đến nay, số kinh phí năm 2021 đã bố trí từ nguồn dự phòng ngân sách các cấp địa phương để thực hiện phòng, chống dịch Covid-19 là 91.095 triệu đồng (gồm: dự phòng ngân sách tỉnh 64.236 triệu đồng; dự phòng ngân sách huyện, xã 26.859 triệu đồng). Trong đó: Kinh phí thực hiện Nghị quyết số 16/NQ-CP, Nghị quyết số 17/NQ-CP là 85.325 triệu đồng (Ngân sách tỉnh 58.466 triệu đồng; Ngân sách cấp huyện, xã 26.859 triệu đồng). Ngoài ra, Hà Tĩnh tiến hành thực hiện Nghị Quyết số 68/NQ-CP hỗ trợ cho người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, góp phần phục hồi sản xuất, kinh doanh, giảm thiểu những tác động tiêu cực của đại dịch, đảm bảo đời sống và an toàn cho người lao động theo. Đến nay, toàn tỉnh đã giải ngân hỗ trợ 19,417 tỷ đồng.

- Công tác đảm bảo an sinh xã hội: Công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh được triển khai kịp thời; các cấp, các ngành đã làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà gia đình người có công công với các mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được quan tâm chu đáo. Đến nay, toàn tỉnh đã trao tặng khoảng 251.207 suất quà với tổng số tiền khoảng 76.843 triệu đồng cho các đối tượng người có công, hộ nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hội. Cụ thể: Quà cho người có công: 119.575 suất quà trị giá khoảng 26.657 triệu đồng; Quà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo 20.694 suất quà trị giá khoảng 10.636 triệu đồng; Quà người cao tuổi: 28.347 suất quà trị giá khoảng 9.237 triệu đồng; Quà trẻ em có hoàn cảnh khó khăn: 35.000 suất quà trị giá khoảng 8.000 triệu đồng; Quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội: 47.591 suất quà trị giá khoảng 22.313 triệu đồng. Đồng thời, trao tặng 13 sổ tiết kiệm với tổng số tiền là 65 triệu đồng; Số nhà xây mới cho các hộ nghèo và cận nghèo là 1.353 nhà với khinh phí khoảng 79.283 triệu đồng. Hỗ trợ sửa chữa nhà ở đối với hộ nghèo và cận nghèo là 29 nhà với kinh phí khoảng 398 triệu đồng. Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương xây mới là 397 nhà kinh phí khoảng 26.623 triệu đồng; Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương sửa chữa là 23 nhà kinh phí khoảng 1.202 triệu đồng. Cấp khoảng 14.929 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, 34.534 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, 165.961 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và 50.992 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công.

9.3. Tình hình thiên tai

Tình hình thiên tai 9 tháng năm 2021, trên địa bàn Hà Tĩnh đã xảy ra 8 đợt thiên tai (đợt 1 vào ngày 26/4/2021; đợt 2 vào ngày 28/4/2021; đợt 3 vào ngày 2/5/2021; đợt 4 vào ngày 10/5/2021; đợt 5 vào ngày 15/5/2021; đợt 6 vào ngày 17/5/2021; đợt 7 vào ngày 25/5/2021; đợt 8 vào ngày 12/6/2021). Thiên tai đã gây thiệt hại làm 2 người chết, 1 người bị thương; 466 nhà bị hư hỏng; 11.965,8 ha lúa; 900,3 ha hoa màu; 400 con gia cầm, 2 con gia súc bị cuốn trôi và chết; Tổng thiệt hại ước tính là 47 tỷ đồng. Sau khi xảy ra thiên tai, các địa phương đã huy động lực lượng hỗ trợ tổ chức khắc phục kịp thời các thiệt hại để đảm bảo cuộc sống và sinh hoạt của người dân, tổng số tiền hỗ trợ khắc phục thiệt hại do thiên tai là 8 triệu hỗ trợ cho gia đình có người chết được trích từ quỹ phòng chống thiên tai.

9.4. Hoạt động giáo dục đào tạo

- Giáo dục phổ thông: Trong bối cảnh dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, sáng ngày 05/9/2021, Hà Tĩnh không tổ chức tựu trường tập trung ở tất cả các trường mà chỉ tổ chức khai giảng năm học mới trực tiếp tại duy nhất một cơ sở giáo dục và truyền hình trực tiếp cho hơn 350 ngàn giáo viên, học sinh tại 666 trường học trên địa bàn 13 huyện, thành, thị ở Hà Tĩnh theo dõi. Bắt đầu từ ngày 15/9/2021, có 12/13 huyện, thị xã, thành phố đã đón học sinh từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông trở lại trường (bậc mầm non chưa tổ chức dạy học).

 Năm học 2021-2022 toàn tỉnh có 667 trường (gồm 254 trường mầm non (tăng 4 trường so với năm học trước), 221 trường tiểu học (không đổi),147 trường THCS (giảm 1 trường do sát nhập xã), 45 trường THPT (không đổi)); với 10.623 lớp (mẩu giáo 2.846 lớp; tiểu học 4.216 lớp; THCS 2.368 lớp; THPT 1.193 lớp); 17.534 giáo viên (mầm non 4.819 người; tiểu học 5.418 người; THCS 4.627 người; THPT 2.670 người) và 329.140 học sinh (mầm non 76.567 người; tiểu học 131.718 người; THCS 78.389 người; THPT 42.466 người).

- Giáo dục đào tạo: Tuyển sinh năm học 2021-2022, trường Đại học Hà Tĩnh tuyển sinh hệ chính quy là 1.405 học sinh, trong đó: Hệ Đại học 1.355 chỉ tiêu, hệ Cao đẳng 50 chỉ tiêu; theo 2 phương thức là xét tuyển học sinh tốt nghiệp THPT và xét tuyển học bạ lớp 11 hoặc lớp 12 THPT, điểm trung bình các môn thuộc tổ hợp xét tuyển không nhỏ hơn 5.0. Đăng ký xét tuyển làm 2 đợt, đợt 1 từ ngày 01/4/2021 đến ngày 30/7/2021 và đợt 2 từ ngày 01/8/2021 - 31/12/2021. Bên cạnh đó, giáo dục nghề nghiệp cũng được chú trọng, chất lượng ngày càng nâng cao hơn. 9 tháng đầu năm 2021 , 9 tháng năm 2021 các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã duy trì tổ chức đào tạo nghề cho khoảng 10.348 người. Trong đó: trình độ cao đẳng nghề khoảng 319 người; trình độ trung cấp nghề khoảng 2.549 người; trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng khoảng 7.480 người.

9.5 Hoạt động Y tế

-Tình hình dịch Covid -19: Dịch Covid-19 đang tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp tại nhiều tỉnh thành trong cả nước. Tính từ ngày 04/6/2021 đến nay, Hà Tĩnh đã ghi nhận 450 ca dương tính tại 13/13 huyện, thực hiện giản cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 tại 8 huyện,thành phố với 40 xã/phường có thôn cách ly. Tính từ ngày 10/7 đến 22/9/2021, Hà Tĩnh đã phát hiện 34 ca trong cộng đồng và 277 ca F0 từ TP Hồ Chí Minh, Bình Dương,...về trên địa bàn tỉnh được cách ly ngay. Kết quả truy vết, xét nghiệm, quản lý người đến/về từ vùng dịch: F1 đã truy vết (từ 4/6 đến 22/9/2021): 4.563 người; F2 đã truy vết (từ 4/6 đến nay): 27.239 người. Tổng số hiện còn cách ly: 3.675 người trong đó: cách ly tập trung 883 người, cách ly tại nhà 2.761 người, cách ly tại cơ sở y tế: 31 người.

-Tình hình dịch bệnh khác: 9 tháng năm 2021, Hà Tĩnh đã ghi nhận 2 ổ dịch sốt xuất huyết với 33 ca mắc sốt xuất huyết, không có trường hợp nào tử vong vì dịch. So với cùng kỳ năm trước: Số ổ dịch không thay đổi, số lượng người mắc tăng 23 người. Ngoài ra, còn có 7 ca sốt xuất huyết đơn lẻ; 1 ca sốt rét; 93 ca viêm não do vi rút; 29 ca quai bị ; 98 ca lỵ trực trùng; 137 ca lỵ ca lỵ amip; 687 ca thủy đậu; cúm 13.277 ca; 17 ca chân tay miệng. Tất cả các bệnh dịch trên đều không tạo thành ổ dịch và không có trường hợp nào tử vong.

- Công tác phòng chống HIV/AIDS: Tính từ 16/8-15/9/2021 Hà Tĩnh có 2 người nhiễm mới HIV (giảm 3 người so với cùng kỳ năm 2020), 2 người chuyển thành AIDS (giảm 5 người so với cùng kỳ năm trước) và không người chết vì AIDS (giảm 2 người so với cùng kỳ năm trước). Quý III năm 2021 có 7 người nhiễm HIV, có 8 trường hợp chuyển thành AIDS, 0 người chết (so với cùng kỳ năm trước: giảm 18 người nhiễm HIV, giảm 21 người chuyển thành AIDS, giảm 2 người chết AIDS). Như vậy, tính từ ngày 16/12/2020-15/9/2021 có 35 người nhiễm mới HIV (giảm 29 người so với cùng kỳ năm 2020), 32 người chuyển thành AIDS (giảm 26 người) và có 2 người chết vì AIDS (giảm 2 người so với cùng kỳ năm trước).

- Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: An toàn vệ sinh thực phẩm là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Trong thời gian qua, công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm tại Hà Tĩnh đã được chính quyền các cấp, ngành quan tâm chỉ đạo kịp thời . Tính từ ngày 16/8-15/9/2021, Hà Tĩnh không xẩy ra vụ ngộ độc tập thể, nhưng có 97 ca bị ngộ độc thực phẩm đơn lẻ; không có người chết vì ngộ độc.

Quý III/2021 (từ 16/6/2021-15/9/2021) không xẩy ra vụ ngộ độc tập thể, có 360 ca ngộ độc thực phẩm đơn lẻ, không có người chết vì ngộ độc. Tính chung 9 tháng đầu năm 2021 (từ 16/12/2020-15/9/2021), toàn tỉnh đã xẩy ra 3 vụ ngộ độc tập thể, làm 53 người bị ngộ độc tập thể, không có người chết vì ngộ độc tập thể, ngoài ra còn 923 ca ngộ độc đơn lẻ. So với cùng kỳ năm trước, tăng 3 vụ ngộc độc, tăng 53 người ngộ độc tập thể; số ca ngộ độc đơn lẻ tăng 85 ca (tăng 10,14%).

9.6 Hoạt động văn hóa - thể thao

- Hoạt động văn hóa: Quý III/2021 hoạt động văn hóa có phần trầm lắng do chịu tác động của dịch Covid – 19 kéo dài. Vì vậy, trong thời gian này, chủ yếu tập trung công tác tuyên truyền về phòng chống dịch Covid-19 thông qua các phương tiện truyền thông như: đài truyền hình, báo chí, hay các trang báo mạng chính thống, đặc biệt là loa đài tại các tổ dân phố, thôn, xóm liên tục và thường xuyên đưa tin về tình hình dịch bệnh và cách phòng chống dịch để người dân nắm rõ và yên tâm. Nhìn chung 9 tháng đầu năm chỉ diễn ra các hoạt động tuyên truyền với nội dung mừng Đảng, mừng Xuân, kỷ niệm các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước và xây dựng tin bài, phóng sự về cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.

- Công tác kiểm tra, thanh tra văn hóa: 9 tháng năm 2021, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch đã tổ chức 7 cuộc thanh tra, kiểm tra. Trong đó: 01 cuộc phối hợp với đội kiểm tra liên ngành Văn hóa xã hội tỉnh kiểm tra tại 115 cơ sở kinh doanh dịch vụ do ngành quản lý; 01 cuộc kiểm tra công tác quản lý, tổ chức các hoạt động lễ hội và công tác tuyên truyền phòng, chống dịch Covid -19 tại các điểm di tích trên địa bàn tỉnh; 01 cuộc kiểm tra về điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị, công tác bảo đảm an toàn phòng chống dịch Covid - 19 tại 15 khu điểm du lịch trong tỉnh; 01 cuộc thanh kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công vụ tại các phòng, ban, đơn vị trực thuộc Sở, 02 cuộc kiểm tra công tác phòng, chống dịch Covid 19 tại doanh nghiệp. Qua kiểm tra đã xử phạt vi phạm hành chính 02 tổ chức, 02 cá nhân với số tiền 17 triệu đồng.

Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch đã cấp 102 giấy phép, trong đó có 02 giấy phép thuộc lĩnh vực du lịch; 01 giấy phép thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn; 01 giấy phép thuộc lĩnh vực di sản văn hóa; 8 giấy phép thuộc lĩnh vực thể dục thể thao; 90 giấy phép thuộc lĩnh vực văn hóa cơ sở.

- Hoạt động thể thao: Chín tháng năm 2021, Hà Tĩnh tham gia 12 giải thành tích cao đạt được 65 huy chương các loại (25 huy chương vàng (HCV) -13 huy chương bạc (HCB) -27 huy chương đồng (HCĐ), trong đó Môn Điền kinh đạt 23 huy chương (9HCV-4HCB-10HCĐ); Môn Pencak Silat đạt 2 huy chương (1HCV-1HCĐ); Môn Karate đạt 28 Huy chương (11HCV-5HCB-12HCĐ), Giải vô địch Karate miền Trung, Tây Nguyên xếp thứ nhì toàn đoàn; Môn Đua thuyền đạt 6 huy chương (3HCV-2HCB-1HCĐ); Môn Muay đạt 4 huy chương(1HCV-1HCB-2HCĐ); Vovinam đạt 2 huy chương (1HCB-1HCĐ); Bóng chuyền thi đấu vòng I Giải vô địch quốc gia xếp thứ 2 bảng A (xếp thứ 4 vòng I) được tham gia Giải bóng chuyền vô địch quốc gia Cup Hùng Vương năm 2021.

9.7 Tình hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội

Từ ngày 15/8/2021 đến ngày 14/9/2021, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 7 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 9 người, bị thương 1 người, thiệt hại khoảng 60 triệu đồng. Tai nạn đường sắt và đường thủy không xảy ra. So với cùng kỳ năm trước: giảm 2 vụ, tăng 4 người chết, giảm 4 người bị thương.

Tính trong quý III/2021 trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 27 vụ tai nạn giao thông đường bộ với 29 người chết, 7 người bị thương, thiệt hại khoảng 165 triệu đồng; Tai nạn đường sắt và đường thủy không xảy ra. So với cùng kỳ năm trước: giảm 8 vụ, giảm 1 người chết, giảm 12 người bị thương.


Như vậy, tính ngày 15/12/2020 đến ngày 14/9/2021, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 78 vụ tai nạn đường bộ với 68 người chết, 26 người bị thương, thiệt hại tài sản 528 triệu. So với cùng kỳ năm trước giảm 11 vụ, giảm 11 người chết, tăng 12 người bị thương.

9.8 Môi trường

- Tình hình cháy, nổ: Trong tháng (từ ngày 15/8/2021 đến ngày 14/9/2021) đã xảy ra 5 vụ cháy, không có vụ nổ không có người chết, không có người bị thương, tổng thiệt hại ước tính là 120 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước tăng 2 vụ, số người chết và bị thương không đổi.

Quý III/2021 (từ ngày 15/6/2021-14/9/2021) xảy ra 23 vụ cháy, 01 người chết và không có người bị thương, thiệt hại ước 226 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước: giảm 5 vụ, tăng 01 người chết và giảm 1 người bị thương.

Từ ngày 15/12/2020-14/9/2021 đã xẩy ra 39 vụ cháy, 1 vụ nổ làm 3 người chết, 02 người bị thương, tổng thiệt hại 2.536 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 13 vụ cháy, tăng 1 vụ nổ, số người chết không đổi, giảm 2 người bị thương.

- Công tác bảo vệ môi trường: Tính từ ngày 15/8 đến ngày 14/9/2021, Hà Tĩnh đã phát hiện 10 vụ, xử lý 10 vụ, tổng số tiền xử phạt 92,6 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2020: số vụ đã phát hiện tăng 9 vụ, số vụ đã xử lý tăng 9 vụ, số tiền xử phạt tăng 57,6 triệu đồng.

 Tính trong quý III/2021 (từ ngày 15/6-14/9/2021) Hà Tĩnh đã phát hiện 40 vụ, đã xử lý 35 vụ, với tổng số tiền xử phạt là 374,8 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2020: số vụ đã phát hiện tăng 33 vụ (tăng 471,42%), số vụ đã xử lý tăng 29 vụ (tăng 483,33%), số tiền xử phạt tăng 304,3 triệu đồng.

Từ ngày 15/12/2020-14/9/2021, Hà Tĩnh đã phát hiện 115 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 87 vụ, tổng số tiền thu được là 1.221,85 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2020: số vụ đã phát hiện tăng 86 vụ (tăng 296,55%), số vụ đã xử lý tăng 59 vụ (tăng 210,71%), số tiền xử phạt tăng 1.043,35 triệu đồng.

10. Đề xuất, giải pháp trong thời gian tới

Năm 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu KT-XH năm 2021, đòi hỏi các cấp, các ngành, địa phương cần phải thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh về thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, đồng thời cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:

(1) Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các biện pháp phòng, chống và giảm thiểu thiệt hại do đại dịch Covid-19.

(2) Tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh; đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa, cắt giảm các thủ tục nhằm giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp và người dân.

(3) Tập trung đẩy mạnh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công cho những tháng cuối năm; huy động tốt nguồn vốn tư nhân cho đầu tư phát triển.

(4) Chủ động bám sát diễn biến thời tiết, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra dịch tả lợn châu Phi, dịch viêm da nổi cục trên đàn trâu bò. Tập trung chỉ đạo thực hiện thắng lợi sản xuất vụ Hè Thu năm 2021; khôi phục sản xuất chăn nuôi sau dịch tả lợn Châu Phi, chú trọng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ. Tích cực thu hút đầu tư lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp sau thép, khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu. Tiếp tục tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển dịch vụ logictics.

(5) Quan tâm phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; xây dựng và thực hiện kế hoạch kích cầu tiêu dùng, chương trình khuyến mại tập trung năm 2021.

Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2021 diễn ra trong điều kiện có nhiều khó khăn, kinh tế tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Hà Tĩnh. Để thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả năm 2021 cần phải có sự chỉ đạo sát sao hơn nữa của cấp ủy chính quyền các cấp và sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị xã hội trong 3 tháng cuối năm./.

BBT




Thêm nhận xét mới

 Bình luận của bạn đã được gửi thành công. Cảm ơn bạn!   Làm mới
Lỗi: Vui lòng thử lại

Thống kê trong ngày

Lượt truy cập:   4.534
Tổng số truy cập:   312.343.234

Sự kiện